ĐỨC THÁNH CHA GIOAN PHAOLÔ II
TỰ SẮC MISERICORDIA DEI
LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA
Về một vài phương diện của việc cử
hành bí tích sám hối
Do lòng thương
xót của Chúa, Chúa Cha Đấng giao hoà chúng ta với chính Người, Ngôi Lời đã mặc
lấy xác phàm trong lòng thanh sạch của Đức Trinh Nữ Rất Thánh Maria để cứu “dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1,
21) và để mở rộng cho họ “con đường cứu
độ đời đời”. (1) Bằng cách đồng hoá Chúa Giêsu như “Chiên Con của Chúa, Đấng xoá bỏ tội trần gian” (Ga 1, 29), Thánh
Gioan Tẩy Giả khẳng định sứ vụ này.
Trong tất cả
những việc làm và giảng dạy của người, vị Tiền Hô đưa ra một lời hiệu triệu sốt
sắng và mãnh liệt phải sám hối và cải thiện, dấu chứng của sự đó là phép rửa
trong nước sông Giođan. Chính Chúa Giêsu đã chịu nghi thức sám hối này (x. Mt
3, 13-17), không phải vì Người đã phạm tội, nhưng vì “Người bằng lòng để mình bị liệt vào số các tội nhân, Người đã là
‘Chiên Con của Chúa Đấng xoá bỏ tội lỗi thế gian’ (Ga 1, 29); Người đã thực
hành trước phép ‘rửa’ sự chết đẫm máu của Người”. (2)
Sự cứu rỗi do
đó và hơn hết là sự cứu khỏi tội, ngăn cản mối thân tình với Thiên Chúa, là một
sự giải thoát khỏi tình trạng nô lệ mà con người cảm thấy mình gánh chịu kể từ
khi sa ngã theo chước cám dỗ của Thần Dữ và làm mất quyền tự do con cái Thiên
Chúa (x. Rm 8, 21).
Chúa Giêsu giao
phó cho các Tông Đồ sứ vụ công bố Nước Thiên Chúa và rao giảng Tin Mừng hoán
cải (x. Mc 16, 15 ; Mt 28, 18-20). Trong buổi chiều ngày Phục Sinh của Người,
khi sứ vụ tông đồ gần bắt đầu, Chúa Giêsu ban cho các Tông Đồ, nhờ quyền phép
Chúa Thánh Thần, thẩm quyền giao hoà những tội nhân sám hối với Thiên Chúa và
với Giáo Hội: “Anh em hãy nhận lấy Thánh
Thần, anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì
người ấy bị cầm giữ” (Ga 20, 22-23). (3)
Dọc suốt lịch
sử trong sự thực hành kiên định của Giáo Hội, “chức vụ hoà giải” (2 Cr 5, 18)
được ban qua các Bí tích Rửa Tội và Sám Hối, luôn được xem như là một nhiệm vu
mục vụ cần thiết và được đánh giá cao của thừa tác vụ linh mục, thực hiện vâng
theo mệnh lệnh Chúa Giêsu. Qua các thế kỷ, việc cử hành Bí tích Sám Hối đã phát
triển trong nhiều hình thức, nhưng nó vẫn giữ cũng một cấu trúc cơ bản: Bí tích
này cần thiết lôi kéo theo không những hành động của thừa tác viên --chỉ một
Giám mục hay linh mục, phán đoán và xá giải, săn sóc và chửa lành nhân danh
Chúa Kitô-- nhưng còn các hành động của kẻ sám hối: sự ăn năn, sự xưng tội và
làm việc đền tội.
Tôi đã viết
trong Tông thư của tôi Novo Millennio Ineunte: “Tôi xin được lòng can đảm mới
mục vụ để bảo đảm rằng huấn giáo hằng ngày cho các cộng đồng Kitô hữu trình bày
việc thực hành Bí tích Hoà Giải cách thuyết phục và hiệu nghiệm. Như anh em
nhớ, năm 1984 tôi đã đề cập tới vấn đề này trong Tông Thư Hậu Thương Hội Đồng
Reconciliatio et Paenitentia, tóm kết những hoa quả của Khoá Họp khoáng đại
Thượng Hội Đồng Giám Mục đã tận tụy cho vấn đề này.
Lúc đó lời mời
của tôi là phải làm mọi cố gắng để đương đầu với cơn khủng hoảng về ‘cảm thức
sự tội’ lộ rõ trong nền văn hoá ngày nay. Nhưng tôi còn khăng khăng kêu gọi một
sự tái khám phá Chúa Kitô như là mầu nhiệm lòng lành (mysterium pietatis), nơi
Người Thiên Chúa chứng tỏ lòng thương xót của Người và giao hoà trọn vẹn chúng
ta với Người. Phải tái khám phá gương mặt này của Chúa Kitô qua bí tích Sám
Hối, đối với người tín hữu bí tích này là ‘phương thế thông thường để được sự
tha thứ và sự xoá bỏ các thứ tội nghiêm trọng đã phạm sau bí tích Rửa Tội’.
Khi Thượng Hội
Đồng bàn tới vấn đề, mọi người đều thấy cơn khủng hoảng của Bí tích, cách riêng
trong một số nơi thế giới. Những nguyên nhân của cơn khủng hoảng không biến mất
trong thời gian ngắn từ đó. Nhưng Năm Thánh, được đánh dấu đặc biệt bằng sự trở
lại với Bí tích Sám Hối, đã cho chúng ta một sứ điệp đầy an ủi, sứ điệp cần
được biết: nếu nhiều người, và trong số đó cũng có nhiều người trẻ, đã được
phúc lợi nhờ đến gần Bí tích này, thì điều có lẽ cần là các Mục Tử phải trang
bị chính mình với niềm tin tưởng, khả năng sáng tạo và sự bền bỉ hơn trong việc
giới thiệu và hướng dẫn người ta biết đánh giá cao bí tích này”. (4)
Với những lời
này, tôi đã có ý, như tôi làm bây giờ, khuyến khích các Giám Mục anh em của tôi
và tha thiết kêu gọi các ngài --và, qua các ngài, tất cả các linh mục--đem lại
sức sống mãnh liệt cho Bí Tích Hoà Giải. Đây là một đòi hỏi của đức ái chân
chính và của phép công bằng mục vụ thật, (5) và chúng ta phải nhớ rằng người
tín hữu, khi họ có những khuynh hướng nội tâm thích đáng, thì họ có quyền nhận
lãnh với tư cách cá nhân ân huệ bí tích.
Để thừa tác
viên Bí Tích có thể biết những tâm trạng người sám hối, ngõ hầu ban hay từ chối
việc giải tội và ra việc đền tội xứng hợp, thì điều cần là mọi người tín hữu,
kèm theo sự ý thức về các tội mình phạm, về sự đau buồn vì tội và quyết chí
không tái phạm, (6), cũng phải xưng ra các tội của mình. Theo nghĩa này, Công
đồng Trente đã tuyên bố rằng cần “phải xưng từng tội và tất cả tội trọng theo
luật Chúa”. (7)
Giáo Hội đã
luôn thấy một sự liên kết thiết yếu giữa sự phán đoán trao cho linh mục trong
Bí tích và sự cần thiết để các hối nhân nêu danh tội mình ra, (8) trừ khi không
thể được. Do đó, vì sự xưng tội đầy đủ các tội nghiêm trọng theo luật Chúa là
một phần tạo thành Bí tích, nên không cách nào phải tùy thuộc sự quyết định của
các vị mục tử (chuẩn chước, giải thích, những tập quán địa phương, v.v…). Trong
những điều khoản kỷ luật có liên quan, thẩm quyền Giáo Hội chuyên môn chỉ nêu
rõ những tiêu chuẩn để phân biệt việc không thể xưng ra tội mình là có thật,
với những hoàn cảnh mà việc không thể xưng tội này chỉ là giả tạo hay có thể
thắng vượt được.
Trong những hoàn
cảnh hiện nay của việc chăm sóc các linh hồn và để trả lời những thỉnh cầu liên
quan của nhiều anh em trong chức Giám Mục, tôi thiết tưởng điều hữu ích là nhắc
lại một số luật thuộc giáo luật đang thịnh hành đối với sự cử hành Bí tích này,
và làm sáng tỏ một số phương diện những luật đó-- trong một tinh thần hiệp
thông với trách nhiệm riêng của toàn thể chức Giám mục (9) để ban Bí tích này
cách tốt hơn. Đó là một vấn đề bảo đảm việc cử hành trung thành hơn, và như vậy
có hiệu quả hơn, (cử hành) một ân huệ Chúa Giêsu sau khi Phục sinh đã trao phó
cho Giáo Hội
Điều này xem ra
đặc biệt cần, vì trong một vài nơi có khuynh hướng bỏ việc xưng tội cá nhân và
sử dụng cách sai lầm việc giải tội “chung” hay là “tập thể”. Trong trường hợp
này việc giải tội không còn coi là một phương thế bất thường được sử dụng trong
những hoàn cảnh hoàn toàn bất thường. Trên nền tảng một sự nới rộng tùy tiện
những điều kiện đòi buộc khi có sự cần nghiêm trọng, (10) trên thực hành có sự
kém trung thành đối với hình dạng thần linh của Bí tích và cách riêng đối với
nhu cầu xưng tội cá nhân, sinh ra sự thiệt hại nghiêm trọng cho đời sống thiêng
liêng và cho sự thánh thiện của Giáo Hội.
Như vậy, sau
khi bàn hỏi Bộ Giáo Lý Đức Tin, Bộ Bí Tích và Phụng Tự, và Hội Đồng Giáo Hoàng
về Văn Bản Pháp Luật, và sau khi nghe các quan điểm của các Hồng Y đáng kính
phụ trách các cơ quan Giáo Triều Roma, và tái khẳng định giáo lý Công Giáo về
Bí Tích Sám Hối và Hoà Giải theo như được tóm tắt trong sách Giáo Lý của Giáo
Hội Công Giáo, (11) ý thức trách nhiệm mục vụ của tôi và hiểu biết đầy đủ về sự
cần thiết của Bí tích này và về tính hiệu quả lâu dài của nó, tôi ra sắc lệnh
sau đây:
1. Các Đấng
Thường quyền phải nhắc cho tất cả các thừa tác viên Bí tích Sám Hối rằng luật
chung của Giáo Hội, ứng dụng Giáo Lý Công Giáo trong lãnh vực này, đã xác minh
rằng:
a) “Việc xưng
tội cá nhân và đầy đủ và việc giải tội, là phương thức bình thường duy nhất qua
đó người tín hữu, biết mình mắc tội nặng, được giao hoà với Chúa và Giáo Hội;
chỉ khi nào không có khả năng về thể lý và luân lý miễn khỏi sự xưng tội như
thế, thì trong trường hợp ấy việc hoà giải có thể thực hiện bằng những cách
khác”. (12)
b) Do đó, “tất
cả những ai có bổn phận do thừa tác vụ của mình phải chăm sóc các linh hồn,
buộc phải bảo đảm nghe xưng tội khi người tín hữu được trao phó cho mình xin
cách hợp lý, và họ phải có cơ hội xưng tội cá nhân, vào những ngày và những
thời gian được niêm yết thuận tiện cho họ”. (13)
Hơn nữa, tất cả
các linh mục có năng quyền ban Bí tích Sám Hối phải luôn luôn tỏ ra sẵn sàng
hết mình ban bí tích đó mỗi khi người tín hữu thỉnh cầu hợp lý. (14) Việc không
muốn đón tiếp những con chiên bị thương tích, và có khi phải đi tới gặp chúng
để đưa chúng về trong chuồng, có thể là một dấu chỉ đáng buồn vì thiếu sự nhạy
cảm mục vụ nơi những người mà, do Bí Tích Truyền Chức Linh Mục, phải phản chiếu
hình ảnh Đấng Chăn Chiên Lành.
2. Các Đấng
Thường Quyền địa phương, và các linh mục giáo xứ và các giám đốc những nhà thờ
và đền thờ, phải xác minh theo định kỳ rằng trên thực tế có dự liệu hết sức có
thể cho giáo hữu xưng tội.
Khuyên cách
riêng, ở những nơi thờ phượng các cha giải tội nên có mặt đúng những thời gian
đã thông báo, những thời gian đó phải tương thích với những hoàn cảnh thực tế
của hối nhân, và việc xưng tội phải được dễ dàng đặc biệt trước các Thánh lễ,
và có khi trong Thánh lễ nếu có sẵn các linh mục khác, ngõ hầu đáp ứng nhu cầu
của người tín hữu. (15)
3. Bởi vì
“người tín hữu bị bắt buộc xưng, theo loại và số, tất cả các tội trọng đã phạm
sau bí tích Rửa Tội, những tội trọng mà họ cảm thấy sau khi xét mình kỹ lưỡng
và chưa được trực tiếp tha bởi quyền chìa khoá của Giáo Hội, cũng chưa được
biết đến trong lần xưng tội cá nhân”, (16) bất cứ thực hành nào mà hạn chế việc
xưng tội vào một việc cáo tội chung cho cả loại hay là vào việc cáo một hay hai
tội cho là quan trọng hơn, thực hành đó phải bị loại trừ. Quả thật, vì mọi
người tín hữu đều được kêu gọi nên thánh, nên khuyên họ cũng xưng các tội nhẹ
nữa. (17)
4. Trong ánh
sáng và trong cảnh huống của những qui luật nói trên, việc giải tội cho một số
hối nhân một lượt mà không có xưng tội trước, như được dự liệu theo Điều 961
của Bộ Giáo Luật, phải được hiểu và ban đúng cách. Việc giải tội như thế thật
sự phải là “bất thường theo tính cách” (18) và “không thể ban một cách thông
thường trừ trường hợp:
1. nguy hiểm
sắp chết và không còn kịp cho linh mục hay các linh mục nghe tội của từng hối
nhân ;
2. Có một nhu
cầu nghiêm trọng, nghĩa là, vì quá đông hối nhân mà số cha giải tội không đủ để
nghe xưng tội riêng từng cá nhân trong một thời gian thích hợp, đến nỗi các hối
nhân sẽ bị thiếu ân sủng bí tích hay không được Rước Mình Thánh một thời gian
dài mà không phải lỗi của họ; không được coi là thật sự cần thiết nếu các cha
giải tội không đủ chỉ vì số đông hối nhân, như có thể xảy ra trong dịp lễ lớn
hay hành hương” (19)
Khi nói tới
trường hợp có nhu cầu nghiêm trọng, xin giải thích rõ sau đây:
a) Nhu cầu đó
qui chiếu về những hoàn cảnh bất thường khách quan, như có thể xảy ra trong
những vùng đất truyền giáo hay những cộng đồng tín hữu sống biệt lập, nơi đó
linh mục chỉ có thể viếng thăm một hay vài lần trong một năm, hay là chiến
tranh hoặc những điều kiện thời tiết hoặc những yếu tố tương tự cho phép.
b) Hai điều
kiện ghi trong giáo luật để ấn định nhu cầu nghiêm trọng, không thể tách riêng
nhau. Do đó, không bao giờ đúng là vấn đề các cá nhân có thể được nghe xưng tội
hay không “cách riêng tư” và “trong thời gian thích hợp” vì thiếu linh mục;
điều này phải kết hợp với việc các hối nhân có thể bị bắt buộc mất ân sủng bí
tích “một thời gian dài” mà không phải lỗi của họ. Do đó, phải lưu ý tới tất cả
mọi hoàn cảnh của hối nhân và của Giáo phận, trong những gì liên quan tới việc
tổ chức mục vụ của Giáo phận và khả năng người tín hữu tới được với Bí tích Sám
Hối.
c) Điều kiện
thứ nhất, sự không thể nghe xưng tội “riêng tư” “trong một thời gian thích
hợp”, chỉ qui chiếu về thời gian cần cách hợp lý cho những yếu tố của sự cử
hành Bí tích thành sự và xứng đáng. Ở đây không phải là một vấn đề của sự đàm
thoại mục vụ trải dài, sự đàm thoại có thể dành cho những hoàn cảnh thuận tiện
hơn. Thời gian hợp lý và thích hợp để nghe xưng tội sẽ tùy thuộc vào những khả
năng thật sự của cha giải tội hay các cha giải tội, và của chính các hối nhân.
d) Điều kiện
thứ hai kêu gọi một sự phán đoán khôn ngoan ngõ hầu ước định thời gian bao lâu
các hối nhân có thể mất ân sủng bí tích để nói tới một sự không thể thật như mô
tả trong Điều 960, giả định không có nguy hiểm chết ngay. Một sự phán đoán như
vậy không phải là khôn ngoan nếu nó bóp méo ý nghĩa của sự không thể vật lý hay
luân lý, như trường hợp, ví dụ, nếu nghĩ rằng thời gian ít hơn một tháng hiểu
là “một thời gian lâu dài” trong một tình trạng mất mát như vậy.
e) Không chấp
nhận tạo ra hay cho phép tạo ra những hoàn cảnh có vẻ cần thiết nghiêm trọng,
phát sinh từ việc không ban Bí tích theo cách bình thường do không tuân theo
các qui định nói trên, (20) và còn ít hơn vi hối nhân thích được giải tội
chung, dường như đó là một sự chọn lựa bình thường tương đương với hai hình
thức bình thường nói trong sách các Lễ Nghi.
f) Con số đông
đảo các hối nhân tập họp trong dịp lễ lớn hay hành hương, hay là do những lý do
du lịch hay là do tính lưu động của dân chúng ngày càng tăng hôm nay, tự nó
không làm thành sự cần thiết đủ.
5. Việc xét
đoán xem có những điều kiện đòi hỏi theo Điều 961 $ 1, 2 không phải là chuyện
của cha giải tội, nhưng là của “Giám mục giáo phận, ngài có thể ấn định những
trường hợp cần thiết như thế trong ánh sáng những tiêu chuẩn được chấp nhận với
các thành viên khác trong Hội Đồng Giám Mục”. (21) Những tiêu chuẩn mục vụ này
phải biểu hiện gìn giữ lòng trung thành trọn vẹn, tùy theo những hoàn cảnh của
những vùng tương ứng của các ngài, đối với những tiêu chuẩn cơ bản gặp trong kỷ
luật chung của Giáo Hội, chính những tiêu chuẩn đó dựa trên những đòi hỏi phát
xuất từ chính Bí tich Sám Hối như là một cơ chế thần linh.
6. Vì tầm quan
trọng cơ bản của sự hài hoà trọn vẹn giữa các Hội Đồng Giám Mục thế giới, trong
một vấn đề rất thiết yếu của đời sống Giáo Hội, các Hội Đồng khác nhau, tuân
giữ Điều 455 $ 2 của Bộ Giáo Luật, sẽ gởi sớm hết sức có thể tới Bộ Bí Tích và
Phụng Tự, văn bản các qui luật các ngài muốn đề ra hay cập nhật hoá theo ánh
sáng của Tự Sắc này áp dụng Điều 961. Điều này giúp nuôi dưỡng sự hiệp thông
càng lớn hơn giữa các Giám Mục Giáo Hội khi các ngài khuyến khích tín hữu khắp
nơi kín múc dồi dào từ nguồn mạch lòng thương xót Chúa luôn luôn chảy ra trong
Bí tích Hoà Giải.
Trong viễn ảnh
hiệp thông này, cũng là điều thích hợp nếu các Giám Mục Giáo phận thông tin cho
các Hội Đồng Giám Mục tương ứng về việc có hay không có những trường hợp của
nhu cầu nghiêm trọng xảy ra trong những quyền hạn của mình. Sau đó mỗi một Hội
Đồng sẽ có trách nhiệm thông báo cho Bộ nói trên về hoàn cảnh thật trong các
vùng đất của mình và về bất cứ thay đổi nào xảy ra tiếp sau.
7. Còn về tâm
trạng cá nhân của các hối nhân, cần nên nhắc lại rằng:
a) “ Để cho
người tín hữu lãnh thành sự việc giải tội bí tích ban cho nhiều người một lượt,
không những họ phải được chuẩn bị cách thích hợp, nhưng đồng thời họ phải có ý
xưng cá nhân những tội nặng mà lúc đó họ không thể xưng”. (22)
b) Theo như có
thể, kể cả những trường hợp nguy tử, phải cho người tín hữu một lời khuyên
trước” để mỗi người chú ý làm việc ăn năn tội”. (23)
c) Điều rõ ràng
là các hối nhân sống trong một tình trạng tội nặng và không có ý sửa đổi hoàn
cảnh của mình, thì không thể lãnh phép giải tội cách thành sự được.
8. Việc buộc
“xưng những tội nặng ít nhất một lần trong năm” (24) vẫn còn giá trị, và do đó
“một người đã được tha các tội nặng qua việc giải tội chung, phải đi xưng tội
cá nhân càng sớm khi có dịp làm như vậy, trước khi lãnh một việc giải tội chung
khác, trừ ra có một lý do chính đáng”. (25)
9. Về nơi chốn
và toà giải tội để cử hành Bí tích, phải ghi nhớ rằng:
a) “Nơi chốn
thích hợp để nghe xưng tội bí tích là một nhà thờ hay một nhà nguyện”, (26) dầu
điều vẫn rõ ràng là những lý do mục vụ có thể biện minh cho việc cử hành Bí
Tích trong những nơi khác. (27)
b) Các toà giải
tội được qui định bởi những quy luật do các Hội Đồng Giám Mục tương ứng đề ra,
các ngài phải bảo đảm cho các toà giải tội được đặt “trong một chỗ trống” và có
“một tấm lưới cố định“, ngõ hầu cho phép người tín hữu và chính các cha giải
tội nào muốn sử dụng, có thể làm như vậy cách tự do. (28)
Tôi ra lệnh
rằng tất cả những gì đề ra trong Tông Thư này gọi là Motu Proprio sẽ có hiệu
lực đầy đủ và vĩnh viễn và phải được tuân giữ kể từ ngày hôm nay trở về sau,
bất chấp những qui định nào nghịch lại. Tất cả những gì tôi đã ra lệnh giữ
trong Thư này, tự bản tính nó, có giá trị cho các Giáo Hội Công Giáo Đông
Phương đáng kính phù hợp với những Điều trong bộ Giáo Luật của họ.
Ban hành tại
Roma, trong Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô, ngày 7/4, Chúa nhật II Phục
Sinh, ngày lễ kính nhớ Lòng Thương Xót của Chúa, năm 2002 Niên Lịch Chúa (giáng
sinh), năm thứ 24 triều Giáo Hoàng của tôi.
+ Gioan Phaolô
II
1) Sách lễ
Rôma, Kinh Tiền Tụng Mùa Vọng
2) Sách Giáo Lý
Công Giáo, 536
3) Xem. Văn
Kiện Công Đồng Chung Trent, Chương XIV, De Sacramento Paenitentiae, Giáo Luật.
3: DS 1703.
4) No. 37: AAS
93 (2001) 292
5) Xem Giáo
Luật khoản 213 và 843 triệt 1.
6) Xem. Văn
Kiện Công Đồng Chung Trent, Chương XIV, De Sacramento Paenitentiae, Giáo Luật.
Chương 4: DS 1676.
7) Ibid., Giáo
Luật. 7: DS 1707.
8) Ibid.,
Chương. 5: DS 1679; Công Đồng Chung Florence, Sắc Lệnh cho Armenians (22 tháng
11 1439): DS 1323.
9) Xem. Giáo
Luật 392; Công Đồng Chung Vatican II, Hiến Chế Giáo Hội Lumen Gentium, Nos. 23,
27; Sắc Lệnh về Mục Vụ Giám Mục Christus Dominus, No. 16.
10) Xem. Giáo
Luật 961, triệt 1, 2
11) Xem. Nos.
980-987; 1114-1134; 1420-1498.
12) Giáo Luật
960.
13) Giáo Luật
986, triệt 1
14) Xem. Công
Đồng Chung Vatican II, Sắc Lệnh về Mục Vụ và Đời Sống Linh Mục, Presbyterorum
Ordinis, 13; Ordo Paenitentiae, editio typica, 1974,Praenotanda, No. 10, b.
15) Xem. Bộ
Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích,Responsa ad dubia proposita: Notitiae, 37 (2001)
259-260
16) Giáo Luật
988, triệt 1
17) Xem. Giáo
Luật 988, triệt 2: John Paul II, Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục về Hòa
Giải và Thống Hối (2 Tháng 12 1984), 32: AAS 77 (1985) 267; Sách Giáo Lý Công
Giáo, 1458.
18) John Paul
II, Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục về Hòa Giải và Thống Hối (2 Tháng 12
1984), 32: AAS 77 (1985) 267.
19) Giáo Luật 961, triệt 1
20) Xem. Nos. 1 and 2.
21) Giáo Luật 961, triệt 2
22) Giáo Luật 962, triệt 1
23) Giáo Luật 962, triệt 2
24) Giáo Luật 989
25) Giáo Luật 963.
26) Giáo Luật 964, triệt 1
27) Xem. Giáo Luật 964 triệt 3.
28) Hội Đồng Giáo Hoàng về Diễn Giải Văn Bản
Pháp Quy, Responsa ad propositum dubium: de loco excipiendi sacramentales
confessiones (7 Tháng Bẩy 1998): AAS 90 (1998) 711.
Đức Ông Phêrô Nguyễn Quang
Sách
PHỤ LỤC
NHẬN ĐỊNH VỀ TÔNG THƯ - TỰ SẮC
CỦA ĐỨC THÁNH CHA VỀ BÍ TÍCH GIẢI TỘI
(05/05/2002). Sáng thứ năm, mùng 2 tháng 5/2002, hai Đức HY
Joseph Ratzinger, Tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin và ĐHY Jorge Arturo Medina
Estevez, Tổng trưởng Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí tích, cùng với Đức TGM Julian
Herranz, Chủ tịch Hội đồng Giáo Hoàng phụ trách việc giải thích các bản văn
luật pháp, trình bày với giới báo chí văn kiện mới của ĐTC Gioan Phaolô II, có
tựa đề là: "Misericodia Dei" (Lòng thương xót Thiên Chúa), nói về Bí
tích Hòa giải. Văn Kiện mới được gọi là "Tông thư ", nhưng cũng mang
một tính cách của một "Tự Sắc” (Motu Proprio), một văn kiện có tính cách
luật pháp, được Đức Thánh Cha dùng để công bố những luật lệ của Giáo hội, trong
những hoàn cảnh riêng biệt.
Vì thế chúng ta thấy: trong cuộc họp báo, ngoài
Đức Hồng Y Tổng trưởng Bộ Phụng tự và Kỷ Luật Bí tích, còn có sự hiện diện của
Đức Hồng Y Tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin và Đức TGM Chủ tịch Hội đồng Tòa
Thánh giải thích bản văn luật pháp của Giáo hội. Sự hiện diện ý nghĩa này nói
lên tính cách quan trọng của Văn Kiện mới, được chính Đức Thánh Cha ký tên và
công bố cho toàn Giáo hội.
Mục đích của Văn kiện mới nhằm đề cao sự quan
trọng và sự cần thiết của Bí tích Hòa Giải, ngay từ lúc Chúa Giêsu bắt đầu cuộc
đời công khai rao giảng Tin Mừng, đồng thời nêu lên những chỉ dẫn, để phục hưng
Bí tích Hòa Giải này trong đời sống Giáo hội.
Trong Năm Toàn xá, người ta đã ghi nhận được
những dấu hiệu tốt đẹp của việc phục hưng Bí tích Hòa Giải. Số người lãnh Bí
tích trên cả thế giới, cách riêng tại Roma, nhất là Ngày Giới Trẻ Thế Giới,
tháng 8 năm 2000, rất khích lệ. Dù vậy Bí tích Hòa giải vẫn còn trong "cơn
khủng hoảng", cách riêng tại thế giới Tây phương. Cơn khủng hoảng này một
phần do các linh mục, phần khác do phía giáo dân.
Nói là do các linh mục, vì các ngài không quan
tâm đến việc ngồi Tòa Giải tội và không sẵn sàng đón nhận những người xin xưng
tội, coi việc ngồi tòa giải tội là một gánh nặng, hoặc lạm dụng Bí tích Hòa
giải bằng cách "giải tội chung hay tập thể", không lo giáo huấn về Bí
tích quan trọng này trong đời sống người giáo dân và biếng nhát lãnh nhận bí
tích nầy trong chính đời sống linh mục. Như vậy, có thể nói chính linh mục làm
cho người giáo dân rơi vào thái độ coi thường Bí tích Hòa giải và dần dần đi
đến việc bỏ hẳn việc xưng tội, mà chỉ đợi dịp tiện "để lãnh nhận việc giải
tội tập thể”.
Từ phía giáo dân - Do việc giảm bớt đức tin - do
việc thiếu sót về giáo lý - do mất quan niệm về tội lỗi - do tự ái, hổ thẹn
không muốn tiết lộ tội lỗi mình với người khác - do xưng tội vì thói quen,
thiếu chuẩn bị và kiểm thảo bản thân... hoặc không tín nhiệm nơi linh mục, nhất
là cha sở của mình, vì lý do này lý do khác... vân vân.
Giờ đây chúng tôi xin lược tóm những điểm chính
của Văn kiện "Misericordia Dei". Có tám (08) điểm sau đây:
1 - Hình thức duy nhất của việc xưng tội
"thành" (valide) là việc thú tội cá nhân và xưng thú mọi tội trọng đã
phạm, sau khi lãnh Bí tích Rửa tội, mà chưa được tha thứ (số 1, a).
2 - Cấm
các linh mục ban phép giải tội tập thể hoặc chung. Việc ban phép giải tội
tập thể hay chung, chỉ được phép trong trường hợp nguy tử hay có sự cần thiết
thực sự trầm trọng. Trong hai trường hợp này, lúc nào có thể, vẫn bắt buộc phải
xưng tội cá nhân (các tội đã được tha trong lần giải tội chung hay tập thể).
3 - Việc nhận định có hay không có những điều
kiện của những trường hợp thực sự khẩn cấp, là việc thuộc thẩm quyền của mỗi
giám mục giáo phận và Hội đồng Giám mục quốc gia. Quyền này không thuộc về linh
mục giải tội (xem giáo luật khoản 961, triệt 1 và số 6 của Tông thư -Tự Sắc).
4 - Nơi chốn
duy nhất và tòa giải tội để cử hành Bí tích Hòa giải là : nhà thờ hay nhà
nguyện, hay một nơi nào khác, vì lý do chính đáng mục vụ đòi hỏi (x. số 9 , a).
5 - Tòa giải
tội phải có vách che, để phân biệt vị giải tội khỏi người xưng tội và phải được
đặt nơi mọi người thấy rõ (visibile). Luật lệ về tòa giải tội do các HĐGM ấn
định (x. số 9, b).
6 - Cấm các linh mục không được ban Bí tích hòa
giải cách dễ dàng cho những người thường sống trong tình trạng tội lỗi mà không
muốn thay đổi đời sống. Đối với các tín hữu, luật bắt buộc xưng tội một năm
ít là một lần vẫn còn hiệu lực, không có gì thay đổi.
7 - Tông thư
-Tự sắc này có giá trị cho cả các Giáo hội Đông phương (x. số 9, phần kết).
8 - Tông thư
-Tự sắc này có giá trị và phải được tuân giữ kể từ ngày Đức Thánh Cha ký nhận,
tức mùng 7 tháng 4 năm 2002, Chúa nhật cuối tuần bát nhật Lễ Phục sinh, và cũng
là Chúa nhật của Lòng Thương xót Chúa.
Kết thúc bài thời sự nầy, chúng tôi xin trích lại đây
nhận xét của Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, tổng trưởng bộ Giáo Lý Đức Tin, vào
khởi đầu bài giới thiệu Tông Thư-Tự Sắc, như sau: "Điều rõ ràng trong giờ
phút lịch sử chúng ta hôm nay là nhân loại cần sự thanh tẩy và sự tha thứ.
Chính vì vậy, mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong tông thư "Khởi đầu
ngàn năm mới (số 37) đã ước mong sao giữa những ưu tiên của sứ mạng của Giáo
Hội trong ngàn năm mới, có một sự can đảm mới trong hoạt động mục vụ, để trình
bày một cách đầy thuyết phục và hữu hiệu việc thực hành bí tích Hòa Giải”.
No comments:
Post a Comment