Thursday, September 10, 2015

ĐTC GIOAN PHAOLÔ II VỀ TIẾN HÓA VÀ ĐỨC TIN



ĐTC GIOAN PHAOLÔ II
Sứ điệp của gởi các thành viên phiên họp khoáng đại
của Viện Hàn Lâm Giáo Hoàng về khoa học, 1986.

Kính gởi các thành viên của Viện Hàn Lâm Giáo Hoàng về Khoa Học
Với lòng trìu mến Cha gởi đến Vị Chủ Tịch và tất cả các thành viên trong Viện Hàn Lâm Giáo Hoàng về khoa học nhân cuộc họp khoáng đại mà anh chị em đang cử hành. Cha gởi lời chào thân ái đến tất cả những ai lần đầu tiên được mời gọi phục vụ trong Viện này, và cũng chân thành tri ân những nhà trí thức trong Viện đã qua đời trong năm vừa qua; Cha phó dâng tất cả những linh hồn đó cho Thiên Chúa hằng sống.



ĐTC đã yêu thích gọi Giáo Hội là Senatus scientificus và yêu cầu Giáo Hội phải phục vụ chân lý. Đó cũng chính là lời mời gọi của Cha dành cho anh chị em ngày hôm nay, cùng với sự chắc chắn rằng tất cả chúng ta phải cố gắng làm "triển nở cuộc đối thoại giữa Giáo Hội và khoa học" (Gioan Phaolô II, Diễn từ cho Viện Hàn Lâm khoa học, 28.10.1986).

2. Cha cũng rất vui vì chủ đề mà anh chị em chọn cho phiên họp này: nguồn gốc sự sống và tiến hóa. Giáo Hội quan tâm đến chủ đề quan trọng này, vì Mặc Khải chứa đựng những giáo huấn về bản chất và nguồn gốc của con người. Làm thế nào để những kết luận về chủ đề này có thể dung hòa giữa khoa học và Mặc Khải? Dường như chúng đối lập với nhau, vì thế, đâu là hướng giải quyết? Chúng ta biết rằng chân lý không thể nào mâu thuẫn với chân lý được (x. ĐTC Leô XIII, Providentissimus Deus). Hơn nữa, để làm sáng tỏ chân lý lịch sử, những nghiên cứu của anh chị em về mối tương quan giữa Giáo Hội và khoa học từ các thế kỷ XVI đến XVIII hết sức quan trọng.
Trong phiên họp này, anh chị em đã hướng đến "suy tư khoa học trong thiên niên kỷ thứ ba" và bắt đầu với những vấn đề phổ quát của khoa học có ảnh hưởng to lớn đến tương lai nhân loại. Anh chị em cũng đã tập hợp những lý giải hữu ích cho con người. Trong thế giới vô cơ và hữu cơ, sự tiến hóa khoa học và những áp dụng của nó đã nảy sinh những vấn nạn mới. Giáo Hội có thể hiểu biết sâu xa hơn tầm quan trọng của nó nếu nhận biết những khía cạnh nền tảng. Theo đó, với sứ mệnh chuyên biệt, Giáo Hội có thể đưa ra những tiêu chuẩn để biện phân những hành xử luân lý, qua đó con người được kêu mời hướng đến ơn cứu độ phổ quát.

3. Trước khi nêu lên một vài suy tư đặc biệt về nguồn gốc sự sống và tiến hóa, Cha muốn nhắc nhớ Giáo Huấn của Giáo Hội về chủ đề này.
Trong Thông Điệp Humani Generis ĐTC Piô XII đã khẳng định rằng không có sự tương phản giữa tiến hóa và Giáo Huấn của đức tin về con người và ơn gọi con người (Pio XII, Humani Generis,1950: AAS 42 [1950] 575-576).
Về phần Cha, vào ngày 31.10.1992 nhân phiên họp khoáng đại của Viện Hàn Lâm về vấn đề Galiêô, Cha đã gợi nhắc về sự cần thiết của việc cắt nghĩa chính xác về những Lời mặc khải. Cần chú giải chính xác Kinh Thánh, và loại bỏ những cắt nghĩa không phù hợp với Lời Chúa. Để giới hạn lãnh vực và đối tượng nghiên cứu, các thần học gia và các nhà chú giải phải lưu tâm đến khoa học tự nhiên (Gioan Phaolô II, Bài nói chuyện với Viện Hàn Lâm Khoa Học, 31.10.1992; Bài nói chuyện với Ủy Ban Giáo Hoàng về Kinh Thánh, 23.04.1993).

4. Lưu tâm đến hiện trạng của những nghiên cứu khoa học vào thời đại đó và cũng nhấn mạnh đến vai trò của thần học, Thông Điệp Humani Generis cho rằng học thuyết tiến hóa là một giả thuyết nghiêm túc, đáng được nghiên cứu và suy tư sâu xa. ĐTC Piô XII nêu lên hai điều kiện cho phương pháp nghiên cứu: không lấy quan điểm này như thể một học thuyết chắc chắn và được minh chứng rõ ràng, và cũng không lấy quan điểm này như thể kín múc hoàn toàn từ Mặc Khải cho những vấn nạn nêu trên. ĐTC cho rằng điều kiện cần thiết là tiến hóa dung hòa với đức tin Kitô giáo.
Khoảng một nửa thế kỷ sau khi Thông Điệp ra mắt công chúng, thì sự hiểu biết khiến chúng ta cho rằng thuyết tiến hóa không chỉ là một giả thuyết. Điều đáng chú ý là thuyết tiến hóa được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, và theo đó hàng loạt những khám phá mới do những ngành khoa học khác nhau. Sự tương đồng của những khám phá này có lợi cho thuyết tiến hóa.
Đâu là tầm quan trọng cho một lý thuyết như thế? Để trả lời cho vấn nạn này, chúng ta hãy đi vào lãnh vực khoa học. Một lý thuyết là kết quả của một tiến trình nghiên cứu khoa học, hình thành từ những quan sát thực nghiệm, và những quan sát thực nghiệm này được thực hiện như nhau. Nhờ những quan sát mà những dữ kiện có thể liên kết với nhau và được giải thích. Lý thuyết có giá trị khi tất cả những thí nghiệm được kiểm chứng, và phải được kiểm chứng liên tục qua những dữ kiện; một khi những dữ kiện không thể kiểm chứng được, thì lý thuyết bộc lộ những khiếm khuyết, và vì thế nó phải được kiểm chứng và tái suy tư.
Hơn nữa, tiến trình hình thành một lý thuyết như thuyết tiến hóa phải liên hệ đến một vài quan niệm của triết học thiên nhiên.
Thật tình mà nói thì không chỉ có một thuyết tiến hóa, nhưng tốt hơn nên bàn về những thuyết tiến hóa. Sự phong phú của nó không chỉ hệ tại ở những lối giải thích khác nhau về tiến trình tiến hóa, mà còn hệ tại ở những trường phái triết học khác nhau nữa. Có những quan điểm vật chất hay thiêng liêng về tiến hóa. Vì thế, triết học và thần học đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc đánh giá học thuyết này.

5. Giáo Huấn của Giáo Hội quan tâm trực tiếp đến vấn đề tiến hóa, bởi vì nó liên hệ đến khái niệm về con người, là tạo vật, theo Mặc Khải, được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa (x. Sáng Thế 1, 28-29). Hiến Chế Gaudium et spes [Vui mừng và hy vọng] đã bàn về vấn đề này và là một trong những điểm qui chiếu cho Kitô giáo. Hiến chế nhắc nhớ rằng con người là "tạo vật duy nhất Thiên Chúa muốn cho chính mình" (Gaudium et spes, số 24). Nói cách khác, mỗi nhân vị con người không phải là một công cụ hay một phương tiện cho giống người hay cho toàn thể xã hội. Con người có giá trị nội tại. Con người là một nhân vị. Nhờ trí khôn và ý chí, con người có khả năng đi vào sự hiệp thông, liên đới và là quà tặng với tất cả sự hữu hạn của mình. Thánh Tôma cho rằng con người giống hình ảnh Thiên Chúa hệ tại ở tri thức lý trí, theo nghĩa là tương quan của con người với đối tượng nhận biết cũng giống như tương quan của Thiên Chúa với công trình sáng tạo (Summa theologiae, I-II, q. 3, a. 5, ad 1). Hơn nữa, con người được kêu mời vào trong tương quan và trong tình yêu với Thiên Chúa, một tương quan sẽ được hoàn thành trong thời vĩnh cửu. Ơn gọi sâu xa và cao cả của con người sẽ được thành toàn trong mầu nhiệm Đức Kitô phục sinh (x. Gaudium et spes, số 22). Điều đó được thể hiện qua linh hồn thiêng liêng và trong thân xác con người. ĐTC Piô XII đã nhấn mạnh đến điểm thiết yếu này: nếu thân xác con người có nguồn gốc từ vật chất, thì linh hồn thiêng liêng được Thiên Chúa tạo dựng cách trực tiếp - “animas enim a Deo immediate creari catholica fides nos retinere iubet” (Pio XII, Humani Generis, AAS 42 [1950] 575).
Theo đó, những thuyết tiến hóa cho rằng tinh thần được hình thành từ vật chất sống động hay tinh thần như một hiện tượng đơn thuần của vật chất, thì không thể tương hợp với chân lý về con người. Hơn nữa, những học thuyết này không thể hình thành phẩm giá con người.

6. Vì thế, với con người chúng ta đứng trước một cấp bậc hữu thể khác biệt; chúng ta có thể nói rằng chúng ta đang đứng trước một "bước nhảy" về hữu thể. Tuy nhiên, việc đưa ra một sự gián đoạn về hữu thể như thế không có nghĩa trái ngược với tiến trình phát triển về thể lý, là điều được xem như sợi dây xuyên suốt cho những nghiên cứu về tiến hóa trong lãnh vực vật lý và hóa học? Lưu tâm đến phương pháp trong những lãnh vực nghiên cứu khác nhau cho phép chúng ta dung hòa hai khóe nhìn dường như tương phản với nhau. Khoa học thực nghiệm mô tả và kiểm chứng cách chính xác những hiện tượng khác nhau của sự sống và mô tả sự sống trong tiến trình thời gian. Giây phút chuyển tiếp sang đời sống tinh thần không phải là đối tượng của khoa học thực nghiệm, cho dẫu điều này có thể được nhìn thấy qua một loạt những dấu chỉ quý giá trong tính đặc thù của hữu thể nhân linh. Kinh nghiệm về siêu hình, về tự thức và tự suy tư phản tỉnh, ý thức luân lý, tự do, về vẻ đẹp và về tôn giáo, đều thuộc lãnh vực của suy tư triết học; trong khi đó, thần học sẽ tiếp cận kế hoạch của Đấng Tạo Hóa.

7. Để kết luận, cha muốn nhắc nhớ rằng chân lý chứa đựng trong Kinh Thánh có thể soi sáng cho những nghiên cứu của anh chị em về nguồn gốc và tiến trình phát triển của sự sống. Quả thực, Kinh Thánh chứa đựng một thông điệp tuyệt vời về sự sống, và ban tặng cho chúng ta viễn cảnh khôn ngoan về sự sống. Viễn cảnh này đã hướng dẫn cha trong Thông Điệp của cha bàn về việc tôn trọng sự sống con người với nhan đề "Evangelium Vitae".
Thật là ý nghĩa với sự kiện trong Tin Mừng Gioan sự sống mô tả ánh sáng thần linh được Chúa Kitô mang đến cho con người. Chúng ta được mời gọi thông dự vào sự sống vĩnh cửu, là sự sống đời đời của niềm hạnh phúc vĩnh hằng.
Cho phép cha trích dẫn Lời Chúa để cảnh giác những cám dỗ trong chúng ta: "Con người sống không nguyên bởi cơm bánh, nhưng còn bởi mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra" (Dnl 8,3; Mt 4,4).
Sự sống là một trong những hạn từ đẹp nhất mà Kinh Thánh dành cho Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa hằng sống.
 Cha khẩn cầu phúc lành của Thiên Chúa xuống trên anh chị em và xuống tất cả những ai gần gũi và thân thương với anh chị em.
Vatican, 22.10.1996,
Gioan Phaolô II

Fx. Phạm Đình Phước SDB
chuyển ngữ từ www.vatican.va 

Tuesday, September 1, 2015

ĐTC PIÔ XII: NGUỒN GỐC CON NGƯỜI



ĐTC PIÔ XII, Thông Điệp Humani Generis

1. Những bất đồng quan điểm và những sai lầm của con người trong lãnh vực luân lý và trong chiều kich tôn giáo, đặc biệt là của các Kitô hữu, luôn là nỗi đau lớn lao cho Giao Hội. Điều này ngày nay con tỏ lộ cách mạnh mẽ hơn khi có những chống đối với nền văn hóa Kitô giáo.

3. Trong tiến trình truy tầm chân lý, lý trí con người tiếp chạm với những trở ngại nhất định, do những đam mê xấu xa hay do tội nguyên tổ. Do đó, con người dễ dàng hướng đến những điều sai trái, hay ngờ vực, nghĩa là "không muốn những điều đó là sự thật, là chân lý". Vì thế, phải xác tín rằng mặc khải thần linh là cần thiết, bởi vì con người có hiểu biết và vươn đến chân lý cách dễ dàng, với niềm xác tín và không sai lầm.

4. Nhất là lý trí con người thỉnh thoảng gặp khó khăn trong việc hình thành những phán đoán chắc chắn về đức tin công giáo, cho dẫu Thiên Chúa đã trao ban cho con người ánh sáng để lý trí con người với bản tính tự nhiên có thể xác tín chắc chắn về nguồn gốc thần linh của Kitô giáo. [...]. Những khẳng định sai lầm về thuyết tiến hóa đã dọn đường cho những nền triết học mới, chẳng hạn như duy tâm, duy thực dụng (duy ích dụng), duy lịch sử.

29. Tất cả chúng ta đều biết Giáo Hội chân nhận giá trị của lý trí con người với nhiệm vụ minh chứng cách chắc chắn sự hiện hữu của một Thiên Chúa ngôi vị, minh chứng rằng những nền tảng của đức tin Kitô giáo cần sự trợ giúp của mặc khải, đồng thời cũng nêu lên những lề luật mà Đấng Tạo Hóa đã khắc ghi trong tâm khảm con người, và hướng đến tri thức về mầu nhiệm.

36. Kitô giáo cũng lưu tâm đến những khám phá khoa học, và những khám phá khoa học có giá trị khi được minh chứng thực sự. Tuy nhiên cần phải thận trọng với những giả thuyết, bởi vì một các nào đó những giả thuyết này dựa trên khoa học, nhưng lại liên hệ đến chân lý chứa đựng trong Kinh Thánh và trong truyền thống của Giáo Hội. Nếu những giả thuyết này cách trực tiếp hay gián tiếp trái ngược với mặc khải thần linh, thì không thể chấp nhận được.
Vì thế, Giáo Hội không ngăn cấm việc nghiên cứu và tranh luận về học thuyết tiến hóa, nghĩa là về nguồn gốc thân xác con người từ một sinh vật có sẵn trước, Giáo Hội dạy phải tin linh hồn do Thiên Chúa trực tiếp tạo dựng.
Trong quá trình nghiên cứu, các lý lẽ biện minh cho cả hai lập trường về thuyết tiến hóa, dù là thuận hay chống, phải được xem xét và phán đoán một cách điều độ và thận trọng với sự nghiêm chỉnh cần thiết, miễn là ai nấy đều phải sẵn sàng tùng phục phán quyết của Giáo Hội vốn đã được Đức Kitô trao cho trọng trách minh giải Kinh Thánh một cách trung thực và bảo vệ giáo lý đức tin.
Thế nhưng sự tự do tranh luận này bị nhiều kẻ lạm dụng một cách táo bạo, họ làm như thể việc thân xác con người bắt nguồn từ một chất thể sinh động đã có sẵn là một điều đã được chứng minh một cách tuyệt đối chắc chắn bằng những dấu tích cho đến nay đã phát hiện được và bằng những lập luận rút ra từ những dấu tích đó, và như thể trong các nguồn suối của mặc khải Thiên Chúa không có điều gì đòi hỏi sự điều độ và thận trọng tối đa.[1]

37. Nhưng khi bàn đến một giả thuyết khác là thuyết đa tổ (polygenism), thì con cái của Giáo Hội  không được hưởng thứ tự do như trên. Quả vậy, các tín hữu không thể chia sẻ quan niệm của những kẻ khẳng định rằng sau Ađam, trên trái đất này, đã thực sự có những người không phải là con cháu của ông, hiểu như thủy tổ của mọi người, theo hệ sinh sản tự nhiên, hoặc Ađam nhằm chỉ nhiều thủy tổ. Quả là người ta không hiểu làm sao có thể dung hòa một quan niệm như thế đối với giáo huấn xuất phát từ các nguồn suối của chân lý mặc khải và giáo huấn của Giáo Hội về tội nguyên tổ vốn bắt nguồn từ tội thực sự đã phạm của một mình ông Ađam, và khi được truyền cho mọi người qua việc sinh sản, tội đó hiện diện nơi mỗi người như tội riêng của mình (Xem  Rm 5, 12-19; Công Đồng Trident. V, điều 1-4).[2]


Fx. Phạm Đình Phước SDB 
chuyển ngữ từ Piô XII, Thông Điệp Humani Generis 12.08.1950, in Denzinger Heinrich, 3875-3899.


[1] Cũng cần lưu ý rằng thuyết tiến hóa không phải là lý thuyết do các nhà thần học đề ra và triển khai, mà bắt nguồn từ bên ngoài đoàn chiên Chúa Kitô. Nên các nhà triết học và thần học cần phải cẩn trọng và khôn ngoan chứ không nên xem như thể nó là một thuyết đã được chứng minh cách chắc chắn.
[2] Khi Giáo Hội khuyên tín hữu tìm hiểu học hỏi thuyết tiến hoá, người ta đã đặt ra vấn đề rất hệ trọng liên quan đến chân lý đức tin, đó là thuyết độc tổ. Giáo lý truyền thống dạy rằng tổ tông loài người là Adam và Eva; còn thuyết tiến hoá, hay nói rộng ra là các khoa học tự nhiên thì quan niệm rằng sau Adam, thực sự đã có những con người không thuộc con cháu của Adam và Eva. Và như thế, tổ tông loài người là đa tổ chứ không phải là độc tổ. Khi chấp nhận thuyết tiến hoá, người ta cho rằng vậy là Giáo Hội cũng chấp nhận thuyết đa tổ. Không phải thế! cần xác định rõ rằng cáctín hữu không thể chia sẻ quan điểm về thuyết đa tổ. Giáo lý về tổ tông loài người và tội nguyên tổ vẫn không có gì thay đổi.