Saturday, September 24, 2016

HƯỚNG DẪN ĐỌC THÔNG ĐIỆP LAUDATO SÌ



Thông điệp Laudato si’ của ĐTC Phanxicô

“Chúng ta muốn trao lại một trái đất nào cho những người tiếp nối chúng ta, cho con cái đang lớn của chúng ta?” Câu hỏi này chính là trọng tâm thông điệp “Laudato sì”, của ĐTC Phanxicô về việc chăm sóc căn nhà chung. Đây không phải là một câu hỏi mang tính “ý thức hệ” hay mang tính “kỹ thuật”, những là một câu hỏi liên quan đến môi sinh của toàn thể nhân loại. ĐTC viết: “Câu hỏi này không phải chỉ liên quan riêng đến môi trường mà thôi, vì chúng ta không thể đặt câu hỏi một phần. Khi tự hỏi về trái đất mà chúng ta muốn để lại, chúng ta có ý nói đến định hướng, ý nghĩa và giá trị của nó. Nếu câu hỏi này không được suy xét kỹ, cha không tin rằng những ưu tư của chúng ta về môi sinh có thể đạt được kết quả có ý nghĩa” (số 160). Mục đích của thông điệp này không chỉ là vấn đề “môi sinh” theo nghĩa rằng nội dung của thông điệp không giới hạn ở những hiện tượng rất quan trọng chẳng hạn vấn đề thay đổi khí hậu. Laudato si’ là một thông điệp thực sự về xã hội trong các chiều kích của nó.[1]

Cấu trúc và khóe nhìn tổng quát
ĐTC Phanxicô cho chúng ta thấy một khóe nhìn tổng quát, toàn diện và rộng lớn của “ngôi nhà chung”, môi trường cho sự sống, chứ không phải đơn thuần là một “sự vật” để sử dụng. Chúng ta đứng trước một vũ trụ như là nơi chốn rất “phong phú và đa dạng” và là nơi mọi thụ tạo liên hệ với nhau và trong “tương quan” (x. số 16, 86, 89, 92, 138). Thế giới này được đan dệt bằng mạng lưới các mối liên kết và tương quan.
Câu hỏi làm động lực để viết thông điệp chính là câu hỏi về ý nghĩa sự sống và về việc chúng ta sống trên trái đất này. “Tại sao chúng ta bước qua thế giới này? Chúng ta bước vào cuộc sống này để làm gì? Tại sao chúng ta phải làm việc để cho mỏi mệt? Thế giới này tại sao cần đến chúng ta?” (số 160). Theo ý nghĩa này, ĐTC Phanxicô nhắc đến quan điểm của các vị tiền nhiệm của ngài, làm thành động lực để chính ngài, như một Giáo Hoàng, không chỉ có thể, mà còn phải lo âu về môi sinh. ĐTC Gioan Phaolô II viết trong thông điệp Centesimus annus (01.05.1991) rằng “Tận cội rễ của việc tàn phá môi trường thiên nhiên có một lỗi lầm mang tính nhân học. Con người, khi khám phá ra khả năng biến đổi và trong một cách thức nào đó tạo ra thế giới qua lao động, lại quên đi rằng khởi nguồn con người được Thiên Chúa ủy thác cho công việc này”. Vì thế, vấn đề không phải là người Công Giáo đối diện với vấn đề môi sinh dưới khóe nhìn đức tin, nhưng vấn đề chính yếu là làm thế nào để thực hiện điều đó.
Thánh Phanxicô Assisi đã hát lên trong bài ca tạo vật rằng: “Con xin chúc tụng Chúa, lạy Chúa của con! vì người mẹ trái đất của chúng con, mẹ nâng đỡ chúng con và mang lại nhiều hoa trái, những bông hoa tươi đẹp, những cây cỏ xanh tươi”. Tâm tình chúc tụng thể hiện phương pháp tiếp cận và thái độ tinh thần của thông điệp. “Trái đất, ngôi nhà chung của chúng ta của chúng ta phải được xem như người chị của chúng ta, cùng với trái đất chúng ta chia sẻ cuộc sống, và như người mẹ ôm lấy chúng ta” (số 1). Chính chúng ta cũng là “bụi đất” (St 2,7). “Thân xác của chúng ta cũng được tạo nên từ những yếu tố của trái đất; không khí của nó giúp chúng ta thở và nước của nó giúp chúng ta sống và được bồi dưỡng” (số 2). Chứng cứ của Thánh Phanxicô cho chúng ta thấy một nền sinh thái trọn vẹn hướng chúng ta đến bản chất nhân bản. “Tất cả những gì xảy ra khi chúng ta yêu thương một người, mỗi lần như thế, người đó sẽ chiêm ngắm mặt trời, mặt trăng hay là một sinh vật bé nhỏ nhất, phản ứng của anh là ca hát lên và lôi kéo tất cả tạo vật vào bài ca của mình” (số 11).
Tuy nhiên, tâm tình chúc tụng ngay từ đầu thông điệp dẫn đưa chúng ta đến tiếng kêu của mẹ trái đất bởi những thiệt hại mà chúng ta gây ra, ảnh hưởng đến người nghèo, khiến chúng ta phải tra vấn lương tâm và mời gọi chúng ta sám hối, “nhìn nhận lỗi lầm chống lại sáng tạo” (số 8). ĐTC trích dẫn Đức Thượng Phụ Bartolomeo của Costantinopoli: “Con người đã tàn phá sáng tạo của Thiên Chúa với nhiều phương cách sinh học; con người đã  phá hoại sự toàn vẹn của trái đất, gây nên sự biến đổi khí hậu, bóc lột trái đất từ những cánh rừng tự nhiên hay tàn phá những vùng ẩm ướt; con người đem đến những tai họa cho kẻ khác, gây bệnh hoạn vì làm nhơ bẩn nguồn nước, đất đai và không khí bằng những chất độc hại. Tất cả những điều này là tội lỗi” (số 8). Đức Thượng Phụ lên tiếng mạnh mẽ bởi vì chúng ta được mời gọi đón nhận “vũ trụ như một bí tích hiệp thông, như một cách thế chia sẻ với Thiên Chúa và với tha nhân trong chiều kích phổ quát. Đó là một xác tín khiêm tốn, qua đó Thiên Chúa và nhân loại gặp gỡ trong những thành phần nhỏ nhất được Thiên Chúa sáng tạo, ngay cả trong hạt bụi nhỏ bé nhất của hành tinh chúng ta” (số 9).
 Lộ trình của thông điệp Laudato sì xoay quanh khái niệm “môi sinh toàn diện” và được trình bày như một bản đồ trong số 15 và được khai triển trong 6 chương. Trước tiên, trong chương một, ĐTC “rảo qua những phương diện xác định về cuộc khủng hoảng môi sinh hiện tại, với mục đích nhìn các thành quả tốt đẹp của việc tìm tòi khoa học, để nhìn sâu và nêu lên một nền tảng cụ thể đường hướng đạo đức và tinh thần”. Từ nhãn giới này, trong chương hai, ĐTC “nêu lên những lý lẽ chắn chắn, dựa theo truyền thống Do thái - Kitô giáo, với ước muốn có một sự liên kết trong việc dấn thân cho môi sinh của chúng ta”. Tiếp đến, trong chương ba, ĐTC “đi đến các nguyên nhân hoàn cảnh hiện tại của chúng ta, không phải chỉ nhìn như hiện tượng, nhưng là những nguyên nhân sâu xa. Với cách thức này, chúng ta có thể đề nghị một khoa sinh thái, trong tất cả chiều kích khác nhau của nó, có một vị trí đặc biệt cho con người trong vũ trụ và những liên hệ  của nó với thực tại bao quanh con người”. Dựa theo ánh sáng của lập luận này, trong chương bốn, ĐTC “tiếp bước những nét chính yếu của cuộc đối thoại và hoạt động, gắn kết với mỗi người chúng ta cũng như với nền chính trị quốc tế”. Trong chương năm, ĐTC nêu lên “vài nét cho việc trưởng thành nhân bản, được cảm nghiệm từ kho tàng kinh nghiệm tinh thần Kitô giáo” và cuối cùng, trong chương sáu, ĐTC tin rằng “mỗi sự thay đổi cần thiết cho sự chuyển đổi và con đường giáo dục”.
Thông điệp kết thúc với hai kinh nguyện: một được trình bày để chia sẻ với tất cả những người tin nơi “Một Thiên Chúa sáng tạo toàn năng” (số 246) và một được đề ra cho những người tuyên xưng niềm tin nơi Chúa Giêsu Kitô, theo nhịp điệp khúc “Laudato sì” khởi đầu và kết thúc thông điệp.
Mỗi một chương trình bày cho chúng ta một chủ đề riêng biệt với phương pháp cụ thể, nhưng toàn thể thông điệp được một số chủ đề hướng dẫn, mang lại một sự nhất thống vững mạnh. “Mối tương quan mật thiết giữa những người nghèo và sự mỏng manh của hành tinh, xác tín rằng: trong thế giới này tất cả đều liên kết với nhau; sự phê bình các dự phóng mới và các hình thức của quyền lực do kỹ thuật đem đến; mời gọi  tìm cách hiểu biết về kinh tế và phát triển; giá trị riêng biệt của từng tạo vật; ý nghĩa nhân sinh của sinh thái; sự cần thiết cho những đề nghị đúng đắn và đích thực, trách nhiệm nặng nề của chính trị toàn cầu và địa phương; loại bỏ văn hóa và đề nghị một lối sống mới” (số 16).
Nếu khoa học là một công cụ ưu tiên để lắng nghe tiếng kêu của trái đất, thì phương pháp của ĐTC Phanxicô kín múc từ những đối thoại rộng mở. Trước hết, với các Giám Mục. Có rất nhiều điểm quy chiếu từ những giáo huấn của các Giáo Hoàng và của các văn kiện Hội Thánh (đặc biệt của Hội Đồng Tòa Thánh về Công Lý và Hòa Bình). Như trong Evangelii Gaudium (EG), ĐTC cũng trích dẫn quan điểm của nhiều Hội Đồng Giám Mục trên thế giới. Cuộc đối thoại của ĐTC còn mang tính liên tôn và đại kết. Vì thế, ngoài việc trích dẫn Thượng Phụ Bartolomeo, ĐTC còn đối thoại với tư tưởng gia rất lớn của Tin Lành, Paul Ricoeur (x. số 85) và với nhà thần bí Hồi Giáo, Ali Al-Khawwas (x. số 233), đồng thời với tư tưởng gia dòng Tên là linh mục Pierre Teilhard de Chardin (x. số 83).

Chương 1: Những gì đang xảy ra cho nhà chúng ta
 Chương này tóm lược những thủ đắc khoa học mới nhất về môi trường như một cách thức để lắng nghe tiếng kêu của thiên nhiên, của các tạo vật. Đối với ĐTC điều quan trọng là “biến đổi những gì xảy ra cho thế giới thành đau khổ của cá nhân, và như thế nhìn nhận đâu là sự đóng góp mà mỗi người có thể mang lại” (số 19). Vì thế, chúng ta nên có một khóe nhìn, cho dù không đầy đủ, về những vấn nạn hiện tại làm cho chúng ta bất an và chúng ta không thể dửng dưng bỏ qua.
Sự ô nhiễm và nền văn hóa loại trừ (số 20-22): “Ngôi nhà trái đất của chúng ta, càng ngày càng trở nên một bãi rác khổng lồ” (số 21). Tận căn rễ của chiều hướng này chúng ta thấy một “nền văn hóa loại trừ” đào thải, mà chúng ta phải phản đối việc áp dụng mô hình sản xuất dựa vào việc tái sử dụng và tái chế, giới hạn trong việc sử dụng nguồn tài nguyên không tái tạo. Ngược lại, “sự thiếu sót về mặt phản ứng trước bi kịch này của anh em, chị em của chúng ta là một dấu chỉ đánh mất cảm thức về trách nhiệm với tha nhân, mà xã hội phải được xây dựng dựa vào đó” (số 25). Và không may, “sự phát triển theo nghĩa này sẽ rất thấp” (số 22).
Những thay đổi khí hậu: “Những thay đổi khí hậu là một vấn đề toàn cầu với những hệ lụy trầm trọng về môi trường, xã hội, kinh tế, phân phối và chính trị, và chúng là một trong những thách đố chính hiện nay đối với nhân loại” (số 25). Nếu “khí hậu là tài sản chung của mọi người và cho mọi người” (số 23), thì ảnh hưởng nặng nề nhất của sự thay đổi khí hậu đè nặng trên những người nghèo nhất, nhưng “nhiều người có nhiều tài nguyên và quyền lực kinh tế hoặc chính trị hơn, dường như chỉ chú tâm tới việc che đậy vấn đề hoặc dấu nhẹm những triệu chứng của sự thay đổi khí hậu” (số 26).
Vấn đề nước uống: ĐTC Phanxicô nêu lên sự thật đau lòng: toàn thể thế giới, đặc biệt là trẻ em, bệnh tật và chết bởi vì không có nguồn nước sạch để uống, trong khi các nhà máy, xí nghiệp tiếp tục gây ô nhiễm nguồn nước. ĐTC khẳng định rõ ràng rằng “tiếp cận nước uống trong sạch là quyền nền tảng và phổ quát của con người, vì nó giúp cho con người được tồn tại và đó là điều tất yếu cho việc thực hiện những quyền khác nhau của con người” (số 30). Không cho người nghèo tiếp cận nguồn nước uống, có nghĩa là “họ bị cướp đi quyền sống, là quyền nền tảng cho phẩm giá bất biến của họ” (số 30). 
Việc đánh mất sự đa dạng sinh học trong tương quan với toàn thể vũ trụ. ĐTC nêu lên một hình ảnh của vũ trụ đắm chìm trong quan niệm con người chủ thể và nhấn mạnh đến tính hài hòa và liên đới của tất cả các tạo vật. “Vì tất cả tạo vật đều liên kết với nhau, cần phải đánh giá chúng với tình yêu và thán phục, và tất cả như những hữu thể mà chúng ta đều cần đến” (số 42). Các loài khác nhau không chỉ là những “tài nguyên” có thể khai thác được và chỉ để phục vụ con người, nhưng còn có giá trị tự mình. Chúng ta thấy “mỗi năm có hàng ngàn loại thực vật và động vật biến mất mà chúng ta không có thể biết chúng nữa, các con cháu chúng ta không thể thấy chúng nữa, chúng biến mất vĩnh viễn. Phần đông chúng chết là do hoạt động một cách nào đó của con người. Vì lỗi lầm của chúng ta, mà hàng ngàn giống loài không còn tôn vinh sự hiện hữu của Thiên Chúa, cũng không trao lại cho chúng ta sứ điệp của chúng. Chúng ta không có quyền làm như thế” (số 33). Những ý tưởng có lợi cho kinh tế đa quốc gia ảnh hưởng đến sự hài hòa của vũ trụ (x. số 38).
Suy giảm phẩm chất cuộc sống và suy thoái cuộc sống xã hội. Kinh nghiệm khi còn ở Buenos Aires giúp cho ĐTC có một khóe nhìn về cuộc sống tại các thành phố lớn với sự phát triển đến độ không còn có thể sống lành mạnh tại đây, không những vì việc ô nhiễm do khí thải độc hại, nhưng còn vì sự lộn xộn trong thành phố, vì vấn đề giao thông và khổ ải vì tiếng động và mầu sắc (x. số 44). Mô hình phát triển mà chúng ta thấy ảnh hưởng trực tiếp đến phần lớn nhân loại, “cho thấy việc phát triển trong hai thế kỷ sau cùng, dưới nhiều phương diện không mang ý nghĩa phát triển và làm tốt phẩm chất cuộc sống” (số 46). “Nhiều thành phố đã trở thành những cơ cấu không chút kinh tế, sử dụng năng lượng và nước quá tải” (số 44), trong khi tương quan với thiên nhiên bị giới hạn, và nhiều nơi, người ta tạo những vùng ‘sinh thái’ để chỉ phục vụ một ít người (x. số 45).
 Sự bất bình đẳng toàn cầu. Những người nghèo, những người bị bỏ rơi chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của môi trường và của xã hội. Thật vậy, “sự hủy hoại môi trường và xã hội gây tác hại cách đặc biệt cho những gì yếu đuối nhất của hành tinh” (số 48). Họ là thành phần đông đảo nhất của hành tinh (x. số 49). Tiếng kêu của trái đất cũng chính là tiếng kêu của người nghèo. Cách giải quyết không phải là việc điều tiết sự sinh sản, nhưng chính là “việc tiêu thụ quá đáng” của một nhóm nhỏ trong dân số toàn cầu (x. số 50). Từ đây sẽ nổi lên sự khẩn thiết và sẵn sàng thay đổi lối sống, sự sản xuất và tiêu thụ (x. số 59).

Chương 2: Tin Mừng về sự sáng tạo
Ánh sáng đức tin. Sau khi nêu lên những “triệu chứng” của cuộc khủng hoảng sinh thái, ĐTC suy tư dưới nhãn quan đức tin. Vì thế, ĐTC dành riêng chương 2 trong thông điệp để đọc lại Kinh Thánh và trình bày một khóe nhìn toàn diện theo truyền thống Do thái – Kitô giáo. ĐTC xác tín rằng sự phức hợp của cuộc khủng hoảng sinh thái ám chỉ đến sự đối thoại đa văn hóa và đa chiếu kích bao gồm linh đạo thiêng liêng và tôn giáo. Đức tin ban tặng những “động lực quan trọng để chăm sóc thiên nhiên và các anh chị em yếu đuối nhất” (số 64). Bổn phận đối với thiên nhiên và trách nhiệm của con người đối với thiên nhiên và với Đấng Sáng Tạo là thành phần căn bản cho niềm tin Kitô giáo.
Vũ trụ, dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa. Trong Kinh Thánh, “Thiên Chúa, Đấng giải thoát và cứu độ, cũng là Đấng sáng tạo vũ trụ” (số 73). Trình thuật về tạo dựng giúp chúng ta suy tư về mối tương quan giữa con người và toàn thể tạo vật, nhưng cũng giúp chúng ta suy tư về giá trị nội tại của mọi tạo vật. “Toàn bộ vũ trụ vật chất là dấu chỉ tình thương của Thiên Chúa, sự âu yếm vô tận của Người đối với chúng ta. Đất đai, nguồn nước, núi non – tất cả đều là sự âu yếm của Thiên Chúa” (số 84). Cùng với Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, chúng ta có thể nói rằng “Cận kề các mạc khải đích thực chứa đựng trong Thánh Kinh, vẫn có một biểu lộ thần linh trong mặt trời chiếu sáng cũng như lúc chiều rơi” (số 85). Trong tính toàn thể của vũ trụ và trong sự hổ tương, vũ trụ biểu lộ sự phong phú vô hạn của Thiên Chúa; vũ trụ là nơi chốn sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng mời gọi chúng ta tôn thờ.
Thế giới và sự gặp gỡ Thiên Chúa. ĐTC không chỉ nói một cách chung chung, ngài nói đến thế giới là nơi chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa, là nơi Thiên Chúa hoạt động. Điều này giúp chúng ta hoàn thiện việc nhìn nhận “nơi chốn” của việc chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa. “Lịch sử tình thân với Thiên Chúa đều diễn ra trong một khoảng không gian địa lý, trở thành một dấu chứng hoàn toàn cá nhân và mỗi người trong chúng ta sẽ gìn giữ trong ký ức của mình các vị trí, mà khi nhớ lại sẽ đem đến những gì tốt đẹp. Ai đã lớn lên trong vùng núi, hay khi còn bé uống nước trong dòng suối, hay ai đã chơi trong một khu giữa thành phố, khi trở về chốn cũ, sẽ tìm lại được căn tính của mình” (số 84).
Tội lỗi đánh mất sự cân bằng của toàn thể thụ tạo. Trình thuật Kinh Thánh cho thấy sự  hiện hữu của con người dựa trên ba tương quan nền tảng: tương quan với Thiên Chúa, với tha nhân và với trái đất. “Theo như lời Thánh Kinh, ba mối tương quan sống động này đã bị phá vỡ, không những bên ngoài, nhưng cả nội tại bên trong. Sự đổ vỡ này là tội lỗi” (số 66).
Tạo vật: hồng ân gìn giữ, chứ không sở hữu và thống trị. ĐTC nêu lên sự kiện là “đôi khi, những người Kitô hữu chúng tôi giải thích sai Thánh Kinh” (số 67), theo đó mô tả con người “thống trị” thế giới. “Ngày nay chúng ta phải chối bỏ rằng từ sự kiện được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa và với mệnh lệnh cai quản trái đất, đưa đến quyền thống trị các tạo vật khác” (số 67). “Chúng ta không phải là Thiên Chúa. Trái đất đã có trước chúng ta và được ban cho chúng ta” và con người được mời gọi để nhận lấy trách “canh tác” và “gìn giữ” ngôi vườn của Thiên Chúa (x. St 2,15). 
Các tạo vật không phải là một sở hữu và “sáng tạo phải được hiểu như một quà tặng đến từ bàn tay rộng mở của Người Cha mọi người” (số 76). “Từ những công trình tạo dựng, người ta hướng đến ‘lòng thương xót của Người tràn đầy tình yêu’. Vũ trụ không xuất phát từ hiệu quả của một quyền lực độc đoán, một sự tỏ lộ quyền lực hay ý muốn tự xác định mình. Sáng tạo nằm trong trật tự tình yêu. Tình yêu của Thiên Chúa là lý do nền tảng của toàn thể sáng tạo” (số 77). Và sáng tạo qua Đức Kitô phục sinh hướng đến sự viên mãn trong Thiên Chúa (x. số 83). Trong sự hiệp thông phổ quát này, con người, được phú ban cho trí khôn ngoan và căn tính cá vị, biểu hiện cho “một điều gì mới mà trong quá trình phát triển của các hệ thống khác không thể giải thích được” (số 81). Con người có trách nhiệm với các tạo vật được ủy thác cho họ, và tự do con người là một huyền nhiệm để có thể làm thăng tiến hay là nguyên nhân cho sự hủy hoại.
Tất cả các tạo vật hướng đến Thiên Chúa. “Mục đích cuối cùng của những tạo vật khác không phải là chúng ta. Nhưng chúng cùng đồng hành với chúng ta và qua chúng ta cùng tiến về một mục đích chung là chính Thiên Chúa” (số 83). Những từ ngữ này làm đảo lộn viễn ảnh của chúng ta. Chúng ta không quan niệm vũ trụ hướng về con người và phục vụ con người, nhưng con người ở trong mạng lưới tương quan toàn cầu giữa các thụ tạo khác. Tất cả mọi thụ tạo trong thế giới liên hệ mất thiết với nhau. Con người có một giá trị đặc biệt và có trách nhiệm nền tảng là bảo vệ “sự mong manh” (số 90). Theo đó, mọi thứ độc ác đối với bất cứ thụ tạo nào “đều nghịch lại với phẩm giá con người” (số 92). Cảm nghiệm về một sự liên kết mật thiết với những hữu thể khác trong thiên nhiên sẽ không đích thực, nếu như đồng thời “trong thâm tâm của chúng ta không có sự trìu mến, cảm thông và một sự lo lắng cho con người” (số 91). Cần thiết có ý thức về sự hiệp thông phổ quát: “Tất cả thụ tạo trong vũ trụ đều do một Cha sáng tạo, nên đã liên kết với nhau bằng một liên hệ vô hình và chúng ta, một cách nào đó. cùng với các thụ tạo thành một gia đình vũ trụ”, thúc đẩy chúng ta “tôn trọng mang sắc thái linh thiêng, yêu thương và khiêm tốn” (số 89). Giá trị xã hội của khóe nhìn Kinh Thánh này rất rõ ràng: “Trái đất là gia sản chung, hoa lợi của trái đất phải dành cho mọi người” và mỗi tài sản cá nhân phải dựa vào “một giả thuyết xã hội” để có thể phục vụ cho xác định chung mà Thiên Chúa muốn ban cho họ (số 93).
Định mệnh của toàn thể vũ trụ nhờ mầu nhiệm Đức Kitô. Chương một kết thúc bằng trọng tâm mặc khải Kitô giáo: “Đức Giêsu lịch sử với sự liên lạc cụ thể và ưu ái với thế giới” là “Đấng Phục sinh đầy vinh quang hiện diện với vương quyền tròn đầy trên toàn thể sáng tạo” (số 100). Ngài “đã sống hòa hợp với toàn thể sáng tạo” (số 98). Vì thế, “sự xác định toàn thể sáng tạo đã được hiện diện trong mầu nhiệm Chúa Kitô, ngay từ thuở ban đầu” (số 99): Tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người  (Cl 1,16), và đến thời viên mãn, Ngài trao tất cả cho Chúa Cha. “Theo cách thức này, mọi tạo vật trên trần gian xuất hiện trước mặt chúng ta không phải như những thực tại tự nhiên, nhưng Đấng Phục Sinh ôm lấy chúng và hướng chúng đến một định mệnh tròn đầy” (số 100). ĐTC cho chúng ta thấy mầu nhiệm tình cha của Thiên Chúa được biểu hiện trong tương quan với các tạo vật. Chính Chúa Giêsu mời gọi chúng ta “nhận thức liên hệ phụ tử mà Thiên Chúa ban cho tất cả thụ tạo” (số 96). Vì thế, “quyền năng vô biên của Thiên Chúa không đưa chúng ta trốn chạy trước tình phụ tử nhân ái của Ngài, vì trong Ngài việc chăm sóc từ ái và sức mạnh hòa quyện với nhau” (số 73).

Chương 3: Nguồn gốc của cuộc khủng hoảng sinh thái
Chương ba của thông điệp trình bày một phân tích tình hình hiện nay để có thể nhận thấy, không những các triệu chứng, nhưng cả những nguyên do sâu xa, trong một cuộc đối thoại với triết học và các khoa học nhân văn.
 Hai điểm nòng cốt là tương quan giữa toàn cầu hóa về kỹ thuật và quyền lực (x. 102-104), và quan niệm quy hướng về con người trong thời hiện đại, theo đó là thuyết tương đối thực hành, khủng hoảng về việc làm và những thách đố về sinh thái (x. 115-136).
Kỹ thuật công nghệ và quyền lực. ĐTC nhìn nhận những điểm tốt đẹp của sự phát triển khoa học kỹ thuật và những đóng góp dành cho con người. Ngài đón nhận điều đó với lòng biết ơn, vì khoa học kỹ thuật giúp thăng tiến điều kiện sinh sống của con người (x. 102-103). Khoa học kỹ thuật sản xuất ra nhiều vật có giá trị để giúp làm tốt đẹp cho phẩm chất sống của con người (từ các đối tượng được sử dụng trong gia đình cho đến những phương tiện giao thông, những cây cầu, nhà cửa, những nơi công cộng). Đồng thời, khoa học kỹ thuật “còn có khả năng sản sinh những gì tốt đẹp và còn đưa ra những “dự phóng” trong lãnh vực làm đẹp cho con người đang nằm trong thế giới vật chất. Người ta có thể phủ nhận vẻ đẹp của một chiếc máy bay hay những tòa nhà chọc trời hay không?” (số 103).
Nhưng ĐTC cũng nhìn nhận những ảnh hưởng của khoa học kỹ thuật trên đời sống con người. Khoa học kỹ thuật “ban cho những ai có kiến thức và nhất là quyền lực kinh tế, sử dụng chúng như một quyền lực thật ấn tượng trên cả nhân loại lẫn cả thế giới” (số 104). Quan niệm khoa học kỹ thuật thống trị ảnh hưởng trên tất cả thực tại như một dụng cụ cho bàn tay con người. Khung mẫu công nghệ kỹ thuật thống trị kinh tế và chính trị. “Kinh tế nắm lấy từng phát triển kỹ thuật để phục vụ cho lợi nhuận”, nhưng “thị trường tự nó không bảo đảm cho việc phát triển nhân bản trọn vẹn, cũng như cho xã hội” (số 109). Chỉ tìm phương cách kỹ thuật để giải quyết mọi vấn đề có nghĩa rằng “che đậy những vấn đề sâu xa của hệ thống toàn cầu” (số 111), cũng cho thấy rằng “sự phát triển khoa học và kỹ thuật không hứa hẹn cho sự phát triển của nhân loại và của lịch sử” (số 113). Vì thế, cần một “cuộc cách mạng về văn hóa” (số 114) để lấy lại các giá trị. Nhân loại cần một “nền luân lý chắc chắn, một nền văn hóa và một linh đạo” (số 105).
Hậu quả của thuyết hiện đại tập trung vào con người. Suy tư về nguyên nhân của cuộc khủng hoảng, ĐTC nhận thấy rằng trong thời hiện đại có một chủ trương quy hướng vào con người thái quá (số 116): con người không còn nhìn nhận vị thế đúng đắn của mình so với thế giới và tự tham chiếu, chỉ qui hướng mọi sự về mình và quyền lực của mình. Đánh mất vai trò “quản lý có trách nhiệm”. Hệ quả của quan niệm tập trung vào con người là “tất cả đều tương đối, nếu như không trực tiếp phục vụ cho lợi ích cá nhân” (số 122) gây ra sự hủy hoại môi trường và gây tai họa cho xã hội, “bởi vì văn hóa sa đọa và người ta không còn công nhận một chân lý khách quan hay những nguyên tắc chung được chấp nhận, như thế luật lệ chỉ là những bó buộc và như rào cản vây quanh con người” (số 123). Để chỉnh sửa điều này cần một nền nhân học nhấn mạnh đến “giá trị các mối tương quan giữa con người với nhau” (số 119) và nhấn mạnh đến toàn thể con người (x. số 120).
Cần hạn chế nền văn hóa “loại trừ” và chủ trương “sử dụng rồi vứt bỏ” biện minh cho mọi thứ gạt bỏ, dù là môi trường hay con người, đối xử với tha nhân và thiên nhiên như những đồ vật và dẫn tới vô số những hình thức thống trị. Đó là thứ chủ trương dẫn tới sự khai thác trẻ em, bỏ rơi người già, biến những người khác thành nô lệ, đánh giá quá cao khả năng của thị trường tự điều khiển, thực hành việc buôn người, buôn bán da thú vật đang tuyệt chủng và “những kim cương đẫm máu” (số 123). Đó cũng chính là chủ trương của nhiều tổ chức mafia, buôn bán cơ phận con người, những kẻ buôn bán ma túy và gạt bỏ các thai nhi vì chúng không đáp ứng các dự phóng của cha mẹ (số 123).
Trong môi sinh học trọn vẹn, phải bảo vệ lao động, bởi vì lao động “là một phần ý nghĩa của cuộc sống trên trái đất này, con đường đi đến trưởng thành, phát triển con người và hiện thực cá nhân mình” (số 128). ĐTC kêu gọi phải bảo vệ lao động, bởi vì lao động chiến thắng sự loại trừ, và ngài thêm rằng để tất cả mọi người có thể hưởng lợi của nền kinh tế tự do, “đôi khi cần xác định ranh giới cho những người có nhiều phương tiện và quyền hành tài chính” (số 129).
Vấn đề khác cho thế giới ngày nay là việc canh tân sinh học qua việc nghiên cứu. Điểm quy chiếu là những thực phẩm biến thái hệ di truyền, chuyển đổi gien, gọi tắt là OGM (số 132-136); đây là “một vấn đề phức tạp” (số 135). Mặc dù “tại một số vùng, việc sử dụng loại thực phẩm này đã làm tăng trưởng kinh tế, góp phần giải quyết một số vấn đề, nhưng người ta gặp những khó khăn lớn không thể coi thường”, bắt đầu từ sự “tập trung đất đai canh tác vào tay một thiểu số người” (số 134). ĐTC Phanxicô đặc biệt nghĩ đến các nhà sản xuất nhỏ và các công nhân ở miền quê, sự đa sạng sinh học, các hệ thống môi sinh. Vì thế cần “có một cuộc thảo luận khoa học và xã hội theo tinh thần trách nhiệm và có tính chất rộng rãi, có khả năng đón nhận các thông tin đang có trong tay và gọi sự vật theo đúng tên của chúng” (số 135).

Chương 4: Môi sinh học toàn diện
Chương bốn của thông điệp chứa đựng trọng tâm cho đề xuất của một môi trường học toàn diện: môi trường  học như một khung mẫu mới về công bằng và “hội nhập vị trí đặc biệt cho con người trong vũ trụ và những liên hệ của nó với thực tại bao quanh con người” (số 15). Khóe nhìn của ĐTC mang tính phổ quát và toàn diện: chúng ta không thể xem thiên nhiên như một cái gì đó khác biệt với chúng ta hay chỉ là một khung cảnh đơn thuần của cuộc sống” (số 139). Quan niệm nhân học, chứ không phải chỉ tập trung vào con người. ĐTC cho rằng không được tách biệt mối liên hệ mạnh mẽ giữa những vấn nạn về môi trường và những vấn nạn xã hội nhân văn: “Ngày nay, việc phân tích vấn đề môi trường không thể tách rời một sự khảo sát môi trường sống của con người, liên hệ gia đình, các điều kiện lao động và liên hệ trong thành phố cũng như liên hệ con người với chính mình” (số 141), theo đó “cần tìm kiếm những cách giải quyết trọn vẹn, phải chú ý đến hậu quả thay đổi giữa nhau của hệ thống tự nhiên và cả hệ thống xã hội. Không phải có hai cơn khủng hoảng cận kề nhau, một của mội trường và một của xã hội, nhưng thực ra chỉ có một cơn khủng hoảng duy nhất mang tính xã hội-môi trường” (số 139).
Vì thế, ĐTC đề xuất quan tâm đến sinh thái học về môi trường, kinh tế và xã hội (số 138-142); một môi sinh học văn hóa (số 143-146) và môi sinh học về đời sống thường nhật (số 147-155) dưới ánh sáng của công ích “số 156-158) và sự công bằng giữa các thế hệ (số 159-162).
Sinh thái học về môi trường, kinh tế và xã hội. ĐTC có một khóe nhìn đa chiều kích và thống nhất, theo đó tất cả nối kết với nhau, trả lại một hình ảnh của vũ trụ trong đó không gian và thời gian, những thành tố vật lý, hóa học và sinh học trên hành tinh hình thành nên một mạng lưới mà chúng ta không thể hiểu thấu được. “Trong vũ trụ này, được tạo lập do các hệ thống mở rộng để liên kết với nhau, chúng ta có thể khám phá ra không biết bao nhiêu hình thức liên hệ và chia sẻ” (số 79).
Ngay cả việc nghiên cứu cũng không thể bị phân mảnh: những tri thức phải liên kết với nhau trong một khóe nhìn rộng lớn chú tâm đến “mối liên hệ hỗ tương giữa hệ thống môi sinh và  những thế giới khác trong xã hội” (số 141) và liên đến những cơ chế khác nhau, bởi vì “tình trạng các cơ chế của một xã hội cũng đều có những hệ luận về môi trường và về phẩm chất đời sống con người” (số 142).
Môi sinh về văn hóa. Nếu chúng ta nhìn nhận tính phức hợp của cuộc khủng hoảng sinh thái và các nguyên nhân của nó, chúng ta phải “có sự hỗ trợ của nhiều văn hóa phong phú, nghệ thuật và thi ca của các dân tộc về cuộc sống nội tại và cả tinh thần” (số 63). Quả vậy, môi sinh học “đòi hỏi việc chăm sóc kho tàng văn hóa phong phú của nhân loại” (số 143) trong sự khác biệt và trong ý nghĩa rộng lớn của chúng. “Cần phải có những đường hướng của luật lệ dân chúng và của các văn hóa; nếu hiểu theo cách thức như thế, thì việc muốn phát triển một nhóm xã hội cần phải nhìn trước tiến trình lịch sử trong đó có một sự cộng tác vững bền về mặt văn hóa, đòi buộc các tác nhân địa phương xuất phát từ văn hóa của chính mình  luôn nắm vững vị trí  hàng đầu” (số 144).
Môi sinh học về cuộc sống thường nhật. Vấn đề môi sinh là vấn đề của cuộc sống hằng ngày, chứ không chỉ của những hệ thống vĩ đại. Thông điệp quan tâm đặc biệt đến môi trường sống hằng ngày gắn liền với cuộc sống con người. Trong bối cảnh này, “khi các kỹ sư xây dựng phản ánh lại tinh thần của một thời đại, sẽ đem các nhà cao tầng và một chuỗi cao ốc để làm nổi bật tinh thần kỹ thuật toàn cầu, trong đó điều mới mẽ thường trực của các sản phẩm sẽ kết hợp với sự chán ngán nặng trĩu” (số 113). Con người có khả năng để thích ứng và hướng đến vẻ đẹp và sự hài hòa. ĐTC kinh ngạc về “khả năng sáng tạo và lòng quảng đại của một số người và một số nhóm, có khả năng nâng các ranh giới của môi trường, bằng cách thay đổi các hậu quả không thích hợp của các điều kiện và học hỏi để định hướng cuộc sống giữa những sự sai trật tự và không bảo đảm” (số 148). Ở những nơi mà “mặt tiền các ngôi nhà bị sa sút, có những người với nhiều phẩm chất, đã chăm sóc nội thất của họ, hay họ cảm thấy hạnh phúc vì sự thân mật và tình thân hữu của dân chúng chung quanh” (số 148). Nhân loại, tình người, cảm thức về đồng loại, có thể diễn ra bất kỳ nơi nào. Dầu vậy, một sự phát triển chân chính đòi phải cải tiến toàn diện về chất lượng cuộc sống con người: không gian công cộng, nhà ở, phương tiện di chuyển, vân vân (số 150-154).
Nguyên tắc công tích và sự công bằng giữa các thế hệ là những điểm quy chiếu trong đề xuất của ĐTC. Quả vậy, nền sinh thái toàn diện “không thể tách rời với khái niệm công ích” (số 158). Dấn thân cho công ích có nghĩa là “chọn lựa ưu tiên cho người nghèo khổ nhất” (số 158), và nghĩ đến những thế hệ tương lai: “không thể bàn đến sự phát triển mà không liên đới với các thế hệ tương lai” (số 159).

Chương 5: Định hướng và hoạt động
Chúng ta hành xử thế nào? Tầm quan trọng của đối thoại. Chương 5 của thông điệp Laudato si’ mời gọi chúng ta hành động: Chúng ta phải làm gì và có thể làm gì? Những phân tích thôi thì không đủ: cần có “sự đối thoại và hành động của mỗi người chúng ta và của các nền chính trị quốc tế” (số 15), “giúp chúng ta bước ra khỏi vòng xoáy của việc tự hủy hoại chính mình” (số 163). Những đề xuất mang tính ý thức hệ không cần thiết. ĐTC biết rằng “có rất nhiều thảo luận về vấn đề môi trường, và rất khó để đạt được một sự đồng thuận”. Mặt khác, “Giáo Hội không có ý định giải quyết những vấn đề khoa học, cũng không thay thế chính trị, nhưng Tôi mời có một cuộc tranh luận thẳng thắng và rõ ràng, để những nhu cầu đặc biệt và các ý thức hệ không làm tổn hại đến công ích” (số 188). Vì thế, cần hai cột trụ: đối thoại và hành động.
Nhưng đối thoại về điều gì? Thông điệp nêu lên cho chúng ta ít nhất năm lãnh vực để đối thoại: đối thoại về môi trường trên bình diện chính trị quốc tế (số 164-175), đối thoại trên bình diện quốc gia và địa phương (số 176-181), đối thoại và minh bạch trong các tiến trình quyết định (số 182-188), chính trị và kinh tế trong cuộc đối thoại để phát triên con người toàn diện (số 189-198), các tôn giáo trong đối thoại với khoa học (số 199-201).
Đối thoại về môi trường trên bình diện chính trị quốc tế (số 164-175). ĐTC viết: “sự phụ thuộc lẫn nhau buộc chúng ta phải nghĩ đến một thế giới duy nhất, một chương trình chung với nhau”, “đề ra những cách giải quyết có viễn cảnh toàn cầu chứ không phải chỉ bảo vệ lợi ích cho vài quốc gia” (số 164). Thông điệp cũng phê phán mạnh mẽ về chính trường quốc tế: “Những cuộc gặp gỡ trao đổi về môi trường toàn cầu của năm cuối cùng không đáp ứng được nguyện vọng, vì thiếu quyết định chính trị, nên không đạt được thỏa thuận có ý nghĩa, có thể đem lại nhiều hiệu quả về môi trường” (số 166). ĐTC tự hỏi: “Tại sao ngày nay người ta muốn duy trì một quyền bính sẽ được nhắc đến trong tương lai là không có khả năng can thiệp khi cấp thiết và cần phải hành động?” (số 57). Vì thế, cần có những hình thức và dụng cụ hữu hiệu để quản trị thế giới (x. số 175): “Chúng ta cần một hiệp định về các chế độ quản trị cho toàn thể những gì gọi là công ích của thế giới (số 174).
Đối thoại trên bình diện quốc gia và địa phương (số 176-181). “Đáp ứng các lợi ích cho việc bầu chọn, các chính quyền không dễ dàng chấp nhận điều nguy hiểm làm phật lòng dân chúng, gây tổn thất cho mức độ tiêu thụ hay có thể gây nguy hiểm cho việc đầu tư của ngoại quốc. Cái nhìn thiển cận trong việc xây dựng quyền lực làm chậm lại việc đón nhận một chương trình với viễn cảnh rộng lớn trong nghị trình công khai của chính quyền” (số 178). Ở cấp độ địa phương, cần thiết cổ võ “lãnh lấy trách nhiệm lớn, một ý nghĩa cộng đồng mạnh mẽ, một khả năng đặc biệt để tiên đoán, một sự sáng tạo nhiệt tình và một tình yêu chân thật cho đất nước họ” (số 179). Vì thế, xã hội “ngang qua các cơ quan không thuộc chính quyền và các hiệp hội trung gian, phải buộc chính quyền triển khai các luật lệ, thủ tục và kiểm soát gắt gao hơn” (số 179).
Đối thoại và minh bạch trong các tiến trình quyết định (số 182-188). Cần thiết nhấn mạnh việc phát triển những tiến trình quyết định lương thiện và minh bạch, để có thể “phân định” đâu là những chính sách và sáng kiến xí nghiệp có thể đưa tới một “sự phát triển toàn diện” (số 185). Đặc biệt, việc nghiên cứu ảnh hưởng của một dự án mới về mặt môi sinh “đòi có những tiến trình chính trị minh bạch và có sự đối thoại, trong khi nạn tham ô che đậy ảnh hưởng thực sự về môi sinh của một dự án để đổi lấy những ân huệ, nó thường đưa tới những hợp đồng mơ hồ, trốn tránh nghĩa vụ thông tin và một cuộc thảo luận sâu rộng” (số 182). “Cần phải nhận thức, khi chấp nhận một dự định cho một sự phát triển thật sự trọn vẹn, người ta phải suy nghĩ đến những câu hỏi trong khi tranh luận như sau:  Ích lợi gì? tại sao? nơi nào? khi nào? Cách thức nào? cho ai? những nguy cơ có thể xảy ra? với giá thành như thế nào? ai sẽ chi trả? người đó sẽ làm như thế nào?” (số 185).
Chính trị và kinh tế trong cuộc đối thoại để phát triển con người toàn diện (số 189-198): “Môi trường là một phần của các điều thiện hảo, mà bộ máy thị trường không thể bảo vệ hay có thể đòi buộc theo cùng một hình thức được” (số 190). Vì thế, sự phát triển một nền kinh tế mới phải chú tâm vào nền tảng luân lý” và “cho việc triển khai qui định mới cho hoạt động tài chính đặc biệt” (số 189). Tận căn hơn, cần thiết phải “tái định nghĩa sự phát triển” (số 194), liên hệ đến một phẩm chất sống cao hơn cho mọi người. Đồng thời, “không thể nói đến một nền kinh tế không có chính trị”, được kêu mời để nhận lấy một cách tiếp cận toàn diện.
Các tôn giáo trong đối thoại với các nghành khoa học. Như đã trình bày rõ ràng ngay từ đầu, chỉ khoa học không đủ để hiểu cuộc sống con người và tặng ban những cách giải quyết mang tính kỹ thuật thì dường như “quên lãng động lực tạo nên sự chung sống, hy tế và điều thiện hảo” (số 200). Chính ở chiều kích này mà các tôn giáo rất quan trọng, giống như cuộc đối thoại giữa các tôn giáo và khoa học. ĐTC viết, các tôn giáo phải bước vào “cuộc đối thoại với nhau để giải hòa với thiên nhiên, bảo về người nghèo và xây dựng mạng lưới  tôn trọng và huynh đệ” (số 201), trong khi đó các cuộc đối thoại giữa các nhà khoa học cũng rất cần thiết để vượt qua sự tự đóng kín mình. “Sự trầm trọng của cuộc khủng hoảng môi sinh đòi buộc mọi người suy nghĩ về công ích và tiến bước trên con đường đối thoại, đòi hỏi sự kiên nhẫn, khổ hạnh và khoang dung; luôn nhớ đến câu: ‘Thực tế đứng trên ý tưởng’” (số 201).

Chương 6: Giáo dục và hoán cải về môi sinh
Chương sáu và là chương cuối cùng của thông điệp nhấn mạnh đến “sự hoán cải về môi sinh”. Cội rễ của cuộc khủng hoảng văn hóa tác động sâu xa và không dễ điều chỉnh lại những tập quán và cách cư xử. Giáo dục và huấn luyện vẫn là những thách đố chủ yếu: “Mọi thay đổi cần có những động lực và một hành trình giáo dục” (số 15), trong tất cả các lãnh vực “trường học, gia đình, các phương tiện truyền thông, việc huấn giáo” (số 213). ĐTC viết: “Nhiều điều phải được định hướng lại, nhưng trước tiên nhân loại phải tự thay đổi. Cần có một ý thức về nguồn gốc chung, một sự thuộc về nhau cách hỗ tương và một tương lai được chia sẻ cho mọi người. Ý thức căn bản này cho phép có một sự phát triển những xác tín mới, cách thức liên hệ và hình thức cuộc sống. Đây chính là thách thức lớn về mặt văn hóa, tinh thần và giáo dục, trong một tiến trình tái sinh lâu dài” (số 203).
Trong chương này, ĐTC nhấn mạnh đến một lối sống mới (số 203-208), giáo dục về liên minh giữa nhân loại và môi trường (số 209-215). Sau khi đã định nghĩa như thế nào là “sự hoán cải về môi sinh” (số 216-221), và hoa trái của nó là niềm vui và bình an (số 223-227), của tình yêu đất nước (số 228-232). Từ đây, mở ra một suy tư thần học sâu xa với những dấu chỉ bí tích và nghỉ lễ (số 233-237), chiều kích Ba Ngôi và tương quan giữa các tạo vật (số 238-240), Mẹ Maria, nữ vương của tất cả thụ tạo (số 241-242), cho đến khi chiêm ngắm đời sống vĩnh cửu “bên kia ánh mặt trời” (số 243-246).
Nhắm đến một lối sống mới. Cho dẫu có thuyết tương đối thực hành và văn hóa hưởng thụ, “không phải tất cả đều bị đánh mất, vì con người có đủ khả năng để tự hạ mình đến mức cuối, cũng có thể vượt lên trên, quyết định cho điều thiện và tự cải hóa mình cho tốt, loại bỏ tất cả những điều kiện tinh thần và xã hội đang đè nén họ” (số 205). Và “khi chúng ta có khả năng vượt qua chủ nghĩa cá nhân, bấy giờ mới có thể tự triển khai một lối sống và một sự thay đổi mang đầy ý nghĩa trong xã hội” (số 208).
Giáo dục về liên minh giữa nhân loại và môi trường. Tiến trình giáo dục về môi sinh phải có khả năng gắn kết với hành động và thái độ hằng ngày: tiết kiệm nước, phân loại rác thải, trồng cây, tắt đèn khi không sử dụng. “Tất cả những điều này đều là những hành động quảng đại và xứng đáng, sẽ đem đến điều tốt đẹp cho hữu thể con người. Hành động sử dụng lại một cái gì đó thay gì quăng đi, có thể là một hành động tình yêu làm nổi bật phẩm giá của chúng ta” (số 211). “Một khoa sinh thái trọn vẹn cũng được thực hiện từ những cử chỉ đơn sơ hằng ngày, qua đó chúng ta phá vở lý luận của bạo lực, tận dụng và ích kỷ” (số 230). Đó là thái độ nội tâm tạo nên một sự biến đổi: “Việc sám hối về môi sinh giả thiết đưa ra nhiều thái độ khác nhau, nối kết chung với nhau để đưa đến một sự dấn thân bảo vệ môi trường cách quảng đại và đầy yêu thương” (số 220).
Hoán cải về môi sinh. Tên gọi của thông điệp quy chiếu về thánh Phanxicô Assisi. ĐTC nhấn mạnh rằng “Gia sản phong phú của linh đạo Kitô giáo, xuất phát hai ngàn năm nay từ kinh nghiệm cá nhân đến cộng đoàn, mang đến một sự đóng góp tốt đẹp cho sự cố gắng canh tân nhân loại” (số 216). Đức tin và linh đạo Kitô giáo ban tặng những động lực sâu xa để chăm sóc thế giới và “không thể dấn thân trong những việc lớn với các lời giảng dạy mà không có một thứ “huyền nhiệm” tràn đầy trong tâm hồn chúng ta”. Vì thế, “cuộc khủng hoảng sinh thái là một lời mời gọi hoán cải nội tâm cách sâu xa” (số 217). Đòi hỏi một sự hoán cải chân thật và riêng biệt về môi sinh. Cần “gặp gỡ với Đức Giêsu Kitô, sẽ giúp cho tất cả nở hoa. Sống ơn gọi là một người bảo vệ cho công trình của Thiên Chúa là một phần tất yếu của một hiện sinh đạo đức; đó không phải là điều gì của định kiến, cũng không phải là một phương diện thứ yếu trong kinh nghiệm Kitô giáo” (số 217).
Sự hoán cải này làm nảy sinh “một cách hiểu khác về phẩm chất cuộc sống và động viên một cách sống mang tính ngôn sứ và chiêm niệm, có khả năng vui mừng cách sâu xa mà không bị đè nén bởi tiêu thụ” (số 222). Mặt khác, không ai có thể thỏa mãn trong một sự điều độ, nếu họ không tìm được bình an nơi chính mình: “Bình an nội tâm của con người có nhiều vấn đề trong việc chăm sóc môi sinh và công ích, chỉ vì, khi sống một cách đích thực, sẽ phản ảnh trong một lối sống thăng bằng, liên kết với khả năng kinh ngạc, sẽ đưa cuộc sống vào trong thâm sâu” (số 225). Lối sống này cụ thể hóa trong “những cử chỉ đơn sơ hằng ngày, qua đó chúng ta phá vở lý luận của bạo lực, tận dụng và ích kỷ” (số 230). 
ĐTC mời gọi hướng đến một tình huynh đệ phổ quát (số 228) được thể hiện trong văn hóa chăm sóc (x. số 231). Những cử chỉ đơn sơ chăm sóc lẫn nhau cũng có một giá trị dân sự và chính trị. ĐTC trích dẫn gương sáng của thánh Teresa di Lisieux, “mời gọi chúng ta thực hiện con đường nhỏ của tình yêu, đừng đánh mất cơ hội để nói một lời dễ thương, một nụ cười, bất cứ một cử chỉ nhỏ bé nào tạo bình an và tình bạn. Một khoa sinh thái trọn vẹn cũng được thực hiện từ những cử chỉ đơn sơ hằng ngày” (số 230). Bên cạnh đó, ĐTC cũng nhắc đến thánh Benedetto da Norcia (số 126) và chân phước Charles de Foucauld (số 125) cùng với thánh Phanxicô Assisi.
Các dấu chỉ bí tích và nghỉ lễ. Chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa không chỉ trong sự thân tình, nhưng còn qua các bí tích. Các bí tích là một cách thức ưu tuyển, trong đó thiên nhiên được Thiên Chúa đón lấy và trở thành trung gian cho đời sống siêu nhiên. Kitô giáo không phủ nhận vật chất và thân xác, những mặc lấy cho nó giá trị viên mãn: “Qua diễn tiến phụng vụ, chúng ta được mời gọi ôm lấy thế giới trên một bình diện khác. Nước, dầu, lửa và màu sắc được đón nhận với các biểu trưng của chúng và được đưa vào những lời ca tụng” (số 235). Cách đặc biệt trong bí tích Thánh Thể “sáng tạo tìm được ý nghĩa cao cả nhất” (số 236). Một trong những trang đẹp nhất của thông điệp là những trang viết về bí tích Thánh Thể. Gợi nhớ Pierre Teilhard de Chardin, ĐTC viết: “Nơi đỉnh cao của mầu nhiệm Nhập Thể, Thiên Chúa đã muốn tiến vào sâu thẳm của chúng ta qua một chút vật chất. Không phải từ trên cao xuống, nhưng từ trong thâm sâu tiến ra, để chúng ta có thể gặp gỡ Người trong thế giới của chúng ta. Trong bí tích Thánh Thể, sự viên mãn đã được hiện thực; đó là trung tâm đời sống của vũ trụ, tâm điểm xuất phát tràn đầy của tình yêu và cuộc sống vô hạn. Kết hợp với Ngôi Con Nhập Thể đang hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể, toàn thể vũ trụ tạ ơn Thiên Chúa”. “Bí tích Thánh Thể kết hợp trời với đất, ôm trọn và thấm thấu vào tất cả sáng tạo. Thế giới xuất phát từ bàn tay của Thiên Chúa, quay về với Người trong một sự thờ phượng thánh thiện và tròn đầy”. Vì thế, “Bí Tích Thánh Thể cũng là nguồn ánh sáng và động lực để việc chăm sóc môi trường và mời gọi chúng ta trở thành những người gìn giữ toàn thể sáng tạo” (số 236).
Bên kia ánh mặt trời. Nhìn lên Ba Ngôi Thiên Chúa, ĐTC khẳng định ngôi vị con người được kêu mời mặc lấy “sự năng động của Ba Ngôi Thiên Chúa, mà Thiên Chúa  đã đóng ấn trong con người từ lúc sáng tạo nên họ. Tất cả đều liên kết với nhau, và điều này mời gọi chúng ta sống một linh đạo tình liên đới với mọi thụ tạo, xuất phát  từ mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa” (số 240). Trong thân xác vinh quang của Mẹ Maria, là Mẹ và là nữ vương các tạo vật, cùng với Đức Kitô phục sinh, “một phần của sáng tạo đã đạt được trọn vẹn sự đẹp đẻ của mình” (số 241). Cùng với mẹ, nổi bật hình ảnh của thánh Giuse. “Trong Phúc Âm, Ngài xuất hiện như một người công chính, lao động và mạnh mẽ, chú tâm đến thực tế để yêu mến và phục vụ cách khiêm tốn” (số 242). Mẹ Maria và thánh Giuse động viên chúng ta lao động với tấm lòng quảng đại và âu yếm, để chăm sóc thế giới mà Thiên Chúa đã gởi gấm cho chúng ta.
Trong viễn cảnh cánh chung, vào thời sau hết chúng ta chiêm ngắm với vẻ đẹp vô tận của Thiên Chúa: “Đời sống vĩnh cửu sẽ là một sự kinh ngạc được chia sẻ, nơi mỗi tạo vật sẽ tìm được vị trí của mình trong việc hiển linh chói sáng và sẽ có điều gì mang đến cho kẻ nghèo được giải thoát một cách dứt khoát” (số 243).
Sau cùng, ĐTC gởi cho chúng ta hai lời cầu nguyện, biểu hiện “niềm vui và nỗi buồn hòa quyện với nhau”. Lời kinh thứ nhất có thể chia sẻ với tất cả mọi người tin vào một Thiên Chúa, Đấng sáng tạo đầy quyền năng, và lời kinh thứ hai để cho những người Kitô hữu chúng ta có thể “đón nhận trách nhiệm đối với sáng tạo như Phúc Âm của Chúa Giêsu trình bày cho chúng ta” (số 246). “Lạy Chúa, xin nắm lấy chúng con, bằng quyền năng và ánh sáng của Chúa, để chỡ che mọi sự sống, để chuẩn bị một tương lai tốt đẹp, ước gì Nước công bằng, bình an, tình thương và vẻ đẹp mau đến. Chúng con chúc tụng Chúa. Amen”.


[1] Xem toàn bộ bài viết: Antonio Spadaro, Laudato si’. Guida alla lettura dell’enciclica di Papa Francesco: in Civiltà Cattolica 3961 (luglio 2015), p. 3-22.

Thursday, September 15, 2016

Sứ điệp của ĐTC Bênêđictô XVI nhân ngày hòa bình thế giới lần thứ 43, 01.01.2010



Sứ điệp của ĐTC Bênêđictô XVI nhân ngày hòa bình thế giới lần thứ 43, 01.01.2010
Nếu bạn muốn xây dựng hòa bình, hãy bảo tồn thiên nhiên.

1. Nhân dịp đầu năm mới, cha muốn gửi những lời cầu chúc an bình nồng nhiệt nhất đến tất cả các cộng đoàn Kitô giáo, các vị lãnh đạo quốc gia, những người nam nữ thiện chí trên toàn thế giới. Cha chọn chủ đề cho ngày hòa bình thế giới lần thứ 43 này là “Nếu bạn muốn xây dựng hòa bình, hãy bảo tồn thiên nhiên”. Sự tôn trọng thiên nhiên rất quan trọng, bởi vì “sự sáng tạo là khởi đầu và là nền tảng của mọi hoạt động của Thiên Chúa” [1] và ngày nay việc bảo tồn công trình sáng tạo trở thành điều thiết yếu đối với sự sống chung hòa bình của nhân loại. Thực vậy, nếu vì sự tàn ác của con người đối với con người, có nhiều đe dọa đang đè nặng trên hòa bình và sự phát triển nhân bản toàn diện chân thực - như chiến tranh, các cuộc xung đột quốc tế và xung đột trong khu vực, những vụ khủng bố và vi phạm các quyền con người -, thì những đe dọa do sự lơ là, - nếu không muốn nói là sự lạm dụng - đối với trái đất và các tài nguyên thiên nhiên do Thiên Chúa ban, cũng không kém phần đáng lo âu. Vì lý do đó, điều rất quan trọng là nhân loại canh tân và củng cố “giao ước giữa con người và môi sinh, giao ước này phải phản ánh tình yêu sáng tạo của Thiên Chúa, Đấng là nguồn gốc và là cùng đích của chúng ta”.[2]
2. Trong Thông điệp “Bác ái trong chân lý” - Caritas in veritate, cha đã nhấn mạnh rằng sự phát triển con người toàn diện có liên hệ chặt chẽ với các nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ của con người với môi trường thiên nhiên, vốn được coi như một món quà của Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người và việc sử dụng món quà này bao gồm một trách nhiệm chung đối với toàn thể nhân loại, đặc biệt là đối với những người nghèo và các thế hệ mai sau. Ngoài ra, cha đã ghi nhận rằng một khi người ta coi thiên nhiên, và nhất là con người, chỉ là kết quả của tình cờ và của định mệnh thuyết tiến hóa, thì sẽ có nguy cơ làm suy giảm ý thức trách nhiệm (số 48).
Trái lại, nhìn nhận thiên nhiên như một món quà của Thiên Chúa ban cho nhân loại sẽ giúp chúng ta hiểu ơn gọi và giá trị của con người. Cùng với tác giả Thánh Vịnh, chúng ta có thể ngưỡng mộ tuyên xưng rằng: “Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người có là chi để Chúa nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm?” (Tv 8,4-5). Ngắm nhìn vẻ đẹp thiên nhiên giúp chúng ta nhìn nhận tình yêu của Đấng Tạo Hóa, Tình Yêu đã “chuyển động mặt trời và các vì sao khác”, như thi hào Dante Alighieri đã mô tả.[3]
3. Cách đây 20 năm, khi chọn đề tài cho ngày hòa bình thế giới là “Hòa bình với Thiên Chúa Đấng tạo hóa, hòa bình với toàn thể công trình tạo dựng”, ĐTC Gioan Phaolô II đã lưu ý về quan hệ giữa chúng ta, trong tư cách là thụ tạo của Thiên Chúa, với vũ trụ bao quanh chúng ta. ĐTC viết: “Ngày nay, càng ngày người ta càng ý thức rằng hòa bình thế giới cũng đang bị đe dọa vì sự thiếu tôn trọng thiên nhiên”. Và ĐTC viết thêm rằng không được bóp nghẹt “lương tâm môi sinh”, trái lại cần phải tạo điều kiện để nó phát triển và trưởng thành, bằng cách tìm được kiểu diễn tả thích hợp trong các chương trình và các sáng kiến cụ thể”.[4] Các vị Tiền Nhiệm khác của cha cũng đã nói về quan hệ giữa con người và môi sinh. Ví dụ, hồi năm 1971, nhân dịp kỷ niệm 80 năm Thông điệp Rerum novarum, của ĐTC Lêô XIII, ĐTC Phaolô VI nhấn mạnh rằng: “Sự khai thác thiên nhiên bừa bãi có nguy cơ phá hủy thiên nhiên và con người trở thành nạn nhân của sự suy thoái thiên nhiên như thế”. Và ĐTC thêm rằng như thế, “không những môi sinh vật chất trở thành một đe dọa trường kỳ với sự ô nhiễm và rác rưởi, các thứ bệnh mới, khả năng hủy hoại hoàn toàn, nhưng cả khung cảnh con người, mà con người không còn làm chủ được cũng bị thương tổn, và như thế nó tạo ra cho tương lai một môi trường mà con người không thể chấp nhận được: đây là vấn đề xã hội có chiều kích to lớn liên hệ tới toàn thể gia đình nhân loại”.[5]
4. Tuy tránh không đi vào các giải pháp kỹ thuật chuyên biệt, Hội Thánh, trong tư cách là chuyên gia về nhân đạo”, mạnh mẽ lưu ý về tương quan giữa Đấng Tạo Hóa, con người và thiên nhiên. Năm 1990, ĐTC Gioan Phaolô II đã nói về “cuộc khủng hoảng môi sinh” và nhấn mạnh rằng cuộc khủng hoảng này chủ yếu có tính chất luân lý đạo đức, Người chỉ rõ “sự cấp thiết về luân lý cần phải có một tình liên đới mới”.[6] Lời kêu gọi này ngày nay càng khẩn cấp hơn, đứng trước những triệu chứng ngày càng gia tăng về một cuộc khủng hoảng mà nếu không nghiêm túc cứu xét thì thật là vô trách nhiệm. Làm sao chúng ta có thể tỏ ra dửng dưng trước những vấn đề xuất phát từ các hiện tượng như sự thay đổi khí hậu, nạn sa mạc hóa, sự suy thoái và mất khả năng sản xuất của những vùng nông nghiệp rộng lớn, sự ô nhiễm sông ngòi và các mạch nước, sự nghèo nàn hóa đa dạng sinh học (biodiversità), sự gia tăng thiên tai, nạn tàn lụi rừng cây tại những vùng xích đới và nhiệt đới? Làm sao không để ý tới một hiện tượng đang lan rộng, đó là “những người tị nạn về môi sinh”: tức là những người vì môi trường sinh sống bị xuống cấp, nên họ buộc lòng rời bỏ môi trường ấy, kể cả của cải, để ra đi, đương đầu với những nguy hiểm và bao nhiêu điều bất trắc của tình trạng bị bó buộc tản cư? Làm sao không phản ứng trước những xung đột hiện nay và những cuộc xung đột có thể bùng nổ vì sự tìm kiếm các nguồn tài nguyên thiên nhiên? Tất cả những vấn đề ấy có ảnh hưởng sâu đậm tới việc thực thi các quyền con người, tới lương thực, sức khỏe và sự phát triển”.
5. Tuy nhiên, cần phải xét rằng cuộc khủng hoảng môi sinh không thể được thẩm định tách biệt khỏi những vấn đề gắn liền với nó, vì nó liên hệ sâu đậm với chính ý niệm về sự phát triển và nhân sinh quan, cũng như những quan hệ của con người với đồng loại và thiên nhiên. Vì thế, điều khôn ngoan là duyệt lại một cách sâu rộng và sáng suốt kiểu mẫu phát triển, cũng như suy tư về ý nghĩa nền kinh tế và các mục tiêu của nó, để sửa sai những gì trục trặc và thiếu quân bình. Tình trạng sức khỏe môi sinh của trái đất đang đòi hỏi điều đó; và nhất là cuộc khủng hoảng về văn hóa và luân lý của con người cũng đòi phải xét lại như vậy, vì từ lâu đã có những triệu chứng hiển nhiên ở các nơi trên thế giới về cuộc khủng hoảng ấy.[7] Nhân loại đang cần được canh tân sâu đậm về văn hóa, cần tái khám phá những giá trị họp thành nền tảng vững chắc cho một tương lai tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người. Những tình trạng khủng hoảng mà nhân loại đang trải qua, dù thuộc lãnh vực kinh tế, lương thực, môi sinh hay xã hội, xét cho cùng, đều là một cuộc khủng hoảng luân lý có liên hệ với nhau. Những tình trạng ấy bó buộc phải suy nghĩ lại con đường chung của con người. Đặc biệt chúng bó buộc phải chấp nhận một lối sống điều độ và liên đới, với những qui luật và hình thức dấn thân mới mẻ, tin tưởng và can đảm dựa trên những kinh nghiệm tích cực đã thực hiện và quyết liệt loại bỏ những kinh nghiệm tiêu cực. Chỉ như thế cuộc khủng hoảng hiện nay mới trở thành cơ hội để phân định và đưa ra những kế hoạch mới.
6. Nơi nguồn gốc của điều mà chúng ta gọi là thiên nhiên”, theo nghĩa vũ trụ, chẳng có một “chủ ý yêu thương và sự thật” hay sao? Thế giới này “không phải là sản phẩm của một sự tất định, một định mệnh mù quáng hay tình cờ nào đó… Thế giới có nguồn gốc từ ý chí tự do của Thiên Chúa, Đấng muốn cho các loài thụ tạo được tham phần vào sự hiện hữu, sự khôn ngoan và tốt lành của Ngài” (Sách GL HTCG, số 295).
Sách Sáng thế, trong những trang đầu tiên, dẫn chúng ta tới dự phóng khôn ngoan về vũ trụ, là kết quả tư tưởng của Thiên Chúa, và nơi tột đỉnh của công trình sáng tạo ấy có người nam và người nữ, họ được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, để “làm đầy trái đất” và “cai quản nó” như “người quản lý” của chính Thiên Chúa (X. St 1,28). Sự hòa hợp giữa Đấng Tạo Hóa, nhân loại và thiên nhiên, mà Kinh Thánh mô tả, đã bị phá hủy vì tội của Adam và Eva, của người nam và người nữ, họ ham muốn chiếm đoạt địa vị của Thiên Chúa, từ chối không coi mình là thụ tạo của Ngài. Hậu quả là cả nghĩa vụ “cai quản, vun trồng và gìn giữ trái đất” của con người cũng bị biến thái và nảy sinh cuộc xung đột giữa con người và phần còn lại của thiên nhiên (X. St 3,17-19). Con người để cho mình bị lòng ích kỷ thống trị, mất ý thức về mệnh lệnh của Thiên Chúa, và trong tương quan với thiên nhiên, con người xử sự như kẻ khai thác bóc lột, muốn thi hành một sự thống trị tuyệt đối trên thiên nhiên. Nhưng ý nghĩa đích thực của mệnh lệnh đầu tiên của Thiên Chúa, được sách Sáng thế nêu bật, không phải chỉ là một sự trao ban quyền bính, nhưng đúng hơn là một lời kêu gọi lãnh nhận trách nhiệm. Vả lại, triết lý khôn ngoan của những người xưa nhìn nhận rằng thiên nhiên mà chúng ta được sử dụng không phải ”như một đống đồ phế thải tung tóe đây đó”,[8] còn Mạc Khải Kinh Thánh cho chúng ta hiểu rằng thiên nhiên là món quà của Đấng Tạo Hóa, Ngài đã thiết lập những trật tự nội tại cho nó, để con người có thể rút ra từ đó những đường hướng cần thiết hầu “bảo tồn và vun trồng thiên nhiên” (X. St 2,15).[9] Tất cả những gì hiện hữu đều thuộc về Thiên Chúa, Ngài ủy thác chúng cho con người, nhưng không phải để con người sử dụng chúng một cách độc đoán. Và khi con người, thay vì chu toàn vai trò cộng tác viên của Thiên Chúa, lại thay thế Thiên Chúa, thì rốt cục con người sẽ tạo nên sự nổi loạn của thiên nhiên, “thiên nhiên bị con người thống trị độc đoán thay vì được cai quản”.[10] Vì vậy, con người có nghĩa vụ cai quản thiên nhiên trong tinh thần trách nhiệm, bảo tồn và vun trồng nó.[11]
7. Rất tiếc là chúng ta phải nhìn nhận rằng một số đông người tại các quốc gia và miền khác nhau trên trái đất ngày càng cảm thấy khó khăn lớn vì sự cẩu thả hoặc từ khước của nhiều người không chăm sóc môi sinh trong tinh thần trách nhiệm. Công đồng chung Vatican II đã nhắc nhở rằng “Thiên Chúa đã dành trái đất và tất cả những gì chứa đựng trong đó cho tất cả mọi người và mọi dân tộc được sử dụng” (Gaudium et spes, số 69). Vì thế, gia sản thiên nhiên thuộc về toàn thể nhân loại. Nhưng nhịp độ khai thác hiện nay đang làm một số nguồn tài nguyên bị lâm nguy không những cho thế hệ hiện tại, nhưng nhất là cho các thế hệ tương lai.[12] Vì thế, chúng ta dễ nhận thấy sự suy thoái môi sinh thường là do sự thiếu những chính sách sáng suốt hoặc do sự theo đuổi những lợi lộc kinh tế một cách thiển cận, và đáng tiếc thay, những chính sách này thường trở thành một đe dọa nghiêm trọng đối với thiên nhiên. Để chống lại hiện tượng ấy, dựa trên sự kiện “mỗi quyết định kinh tế đều có một hậu quả luân lý”,[13] cần làm sao để hoạt động kinh tế tôn trọng môi sinh nhiều hơn. Khi chúng ta sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên, cần quan tâm bảo tồn chúng, và dự trù cả những tổn phí – về mặt môi sinh và xã hội – những tổn phí này cần được coi như một mục quan trọng trong các tổn phí của hoạt động kinh tế. Cộng đồng quốc tế và các chính quyền quốc gia có nhiệm vụ đưa ra những chỉ dẫn đúng đắn để chống lại một cách hữu hiệu những cách thức khai thác môi sinh có hại cho nó. Để bảo vệ môi sinh, để bảo tồn các nguồn tài nguyên và khí hậu, một đàng cần phải hành động trong sự tôn trọng các qui luật được xác định rõ ràng về mặt pháp lý và kinh tế, và đàng khác cần để ý đến tình liên đới phải có đối với những người cư ngụ tại các vùng nghèo hơn trên trái đất và các thế hệ tương lai.
8. Thực vậy, dường như cần cấp thiết đạt tới một tình liên đới chân thành giữa các thế hệ. Không thể dồn cho các thế hệ tương lai những tổn phí do việc sử dụng các tài nguyên môi sinh chung: “Trong tư cách là những người thừa kế của các thế hệ trước đây và được hưởng công trình của những người đồng thời, chúng ta có nghĩa vụ đối với tất cả mọi người và không thể không quan tâm tới những người sẽ đến sau chúng ta để nới rộng gia đình nhân loại. Tình liên đới đại đồng, vốn là một sự kiện và là một điều ích lợi cho chúng ta, cũng là một nghĩa vụ. Đây là một trách nhiệm của các thế hệ hiện tại đối với các thế hệ tương lai, và cũng là trách nhiệm của mỗi quốc gia và cộng đồng quốc tế”.[14] Việc sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên phải làm sao để những lợi ích hiện thời không kéo theo những hậu quả tiêu cực cho các sinh vật, con người và những vật khác, hiện tại và tương lai; việc bảo tồn tài sản riêng không ngăn cản tiêu đích chung của các tài nguyên cho tất cả mọi người;[15] sự can thiệp của con người không được làm thương tổn sự phong phú của trái đất, để mưu ích ngày nay và trong tương lai. Ngoài sự liên đơn chân thành giữa các thế hệ, cũng cần tái khẳng định nghĩa vụ luân lý cấp thiết phải canh tân tình liên đới trong cùng thế hệ với nhau, đặc biệt là trong các quan hệ giữa những quốc gia đang trên đường phát triển và những nước công nghệ cao: “Cộng đồng quốc tế có nghĩa vụ không thể tránh né cần tìm ra những con đường chính thức để qui định sự khai thác các tài nguyên không thể hồi hại, với sự tham gia của các nước nghèo, để cùng nhau lập kế hoạch cho tương lai”.[16] Cuộc khủng hoảng môi sinh chứng tỏ cần cấp thiết có một tình liên đới được thể hiện trong không gian và thời gian. Thực vậy, điều quan trọng là nhìn nhận trách nhiệm lịch sử của các nước công nghệ trong số các nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng môi sinh hiện nay. Các nước kém phát triển hơn, và đặc biệt là các nước đang trổi lên, cũng không được miễn chuẩn trách nhiệm đối với thiên nhiên, vì tất cả đều có nghĩa vụ dần dần chấp nhận các biện pháp và chính sách môi sinh hữu hiệu. Điều này có thể thực hiện dễ dàng hơn nếu người ta bớt những tính toán vụ lợi trong việc viện trợ và thông truyền kiến thức cũng như sử dụng các kỹ thuật tôn trọng môi sinh hơn.
9. Chắc chắn một trong những vấn đề chính mà cộng đồng quốc tế cần giải quyết là vấn đề các nguồn năng lượng, bằng cách xác định những kế hoạch chung và dài hạn để thỏa mãn các nhu cầu năng lượng của thế hệ hiện tại và tương lai. Với mục đích ấy, các xã hội kỹ thuật tân tiến cần tỏ ra sẵn sàng cổ vũ lối sống điều độ, giảm bớt nhu cầu năng lượng và cải tiến các điều kiện sử dụng chúng. Đồng thời, cần cổ vũ việc nghiên cứu và ứng dụng các năng lượng ít ảnh hưởng hơn tới môi sinh hơn, và cần “tái phân phối các nguồn năng lượng trên trái đất, làm sao để các nước không có cũng có thể được hưởng”.[17] Vì vậy, cuộc khủng hoảng môi sinh là cơ hội lịch sử để đề ra một câu trả lời tập thể nhắm biến cải kiểu mẫu phát triển hoàn vũ theo chiều hướng tôn trọng hơn đối với thiên nhiên và phát triển con người toàn diện, theo giá trị của đức bác ái trong chân lý. Vì thế, cha cầu mong có sự chấp nhận một kiểu mẫu phát triển dựa trên đặc tính trung tâm của con người, sự thăng tiến và chia sẻ công ích, trách nhiệm, ý thức về sự cần thiết phải thay đổi lối sống và sự khôn ngoan thận trọng, là nhân đức chỉ dẫn những hành vi cần thực hiện ngày nay, tiên liệu những gì có thể xảy ra ngày mai.[18]
10. Để hướng dẫn nhân loại tiến về sự quản trị môi sinh và các tài nguyên của trái đất một cách lâu bền, con người được mời gọi sử dụng trí thông minh của mình trong lãnh vực nghiên cứu khoa học và kỹ thuật và trong việc ứng dụng những khám phá từ đó mà ra. “Tình liên đới mới” mà ĐTC Gioan Phaolô II đã đề nghị trong Sứ điệp nhân ngày Hòa Bình Thế giới năm 1990 (số 9) và ”tình liên đới hoàn vũ” mà chính cha đã nhắc đến trong Sứ điệp nhân Ngày Hòa Bình Thế giới năm 2009 (số 8), là những thái độ thiết yếu để hướng dẫn những nỗ lực bảo vệ thiên nhiên, qua một hệ thống quản lý các tài nguyên trái đất có phối hợp hơn trên bình diện quốc tế, nhất là trong lúc người ta thấy ngày càng hiển nhiên sự liên hệ chặt chẽ giữa cuộc chiến đấu chống suy thoái môi sinh và sự thăng tiến phát triển con người toàn diện. Đây là một động thái (dinamica) không thể bỏ qua, xét vì “sự phát triển nhân bản toàn diện không thể xảy ra nếu không có sự phát triển tình liên đới của nhân loại”.[19] Ngày nay có bao nhiêu khả năng khoa học và những phương thức có tiềm năng đổi mới, nhờ đó có thể mang lại những giải pháp thỏa đáng và hài hòa cho quan hệ giữa con người và môi sinh. Ví dụ, cần khuyến khích các nghiên cứu nhắm tìm ra những phương thức hữu hiệu nhất để khai thác tiềm năng lớn lao của năng lượng mặt trời. Cũng cần chú ý như thế đối với vấn đề nước trên thế giới và hệ thống thủy địa (idrogeologico) trên hoàn cầu, chu kỳ của hệ thống này có tầm quan trọng hàng đầu đối với sự sống trên trái đất và sự ổn định của nó đang có nguy cơ bị đe dọa trầm trọng vì những thay đổi khí hậu. Cũng cần tìm kiếm những kế hoạch thích hợp để phát triển nông thôn, quy trọng tâm vào các tiểu nông dân và gia đình họ, cũng như cần đề ra những chính sách thích hợp để quản lý rừng cây, loại bỏ các đồ phế thải, đề cao giá trị của sự hợp lực hiện hữu giữa việc chống lại thay đổi khí hậu và chiến đấu chống nghèo đói. Cần có những chính sách quốc gia có tầm mức rộng lớn, được bổ túc bằng sự dấn thân của quốc tế, nhằm mang lại những lợi ích quan trọng, trung hạn và dài hạn.
Tóm lại, cần ra khỏi tiêu chuẩn thuần túy thị trường để cổ võ những hình thức sản xuất nông nghiệp và công nghệ tôn trọng trật tự thiên nhiên và đáp ứng các nhu cầu cơ bản của mọi người. Cần đương đầu với vấn đề môi sinh không phải chỉ nghĩ đến viễn tượng kinh hoàng mà sự suy thoái môi sinh có thể gây ra; động lực thúc đẩy giải quyết vấn đề này phải dựa trên sự tìm kiếm một tình liên đới đích thực theo chiều kích hoàn cầu, dựa theo các giá trị bác ái, công lý và công ích. Đàng khác, như tôi đã có dịp nhắc nhở, “kỹ thuật không bao giờ chỉ là kỹ thuật thuần túy. Nó biểu lộ con người và khát vọng phát triển của con người; nó diễn tả lòng mong ước của tâm trí con người muốn dần dần vượt thắng một số sự lệ thuộc vật chất. Vì thế, kỹ thuật cũng thuộc về mệnh lệnh ‘hãy vun trồng và bảo tồn trái đất’ (X. St 2,15) mà Thiên Chúa ủy thác cho con người, và nó phải nhắm củng cố giao ước giữa con người và môi sinh được kêu gọi phản ánh tình thương sáng tạo của Thiên Chúa”.[20]
11. Một điều ngày càng rõ ràng là đề tài suy thoái môi sinh đặt vấn đề về thái độ của mỗi người chúng ta, lối sống và những kiểu mẫu tiêu thụ và sản xuất đang thịnh hành, thường không thể chấp nhận được về phương diện xã hội, môi sinh và cả về kinh tế nữa. Ngày nay người ta thấy cần phải có một sự thay đổi não trạng thực sự, thúc đẩy mọi người chấp nhận một lối sống mới “theo đó sự tìm kiếm chân, thiện, mỹ và sự hiệp thông với tha nhân để cùng nhau tăng trường trở thành những yếu tố xác định sự chọn lựa tiêu thụ, tiết kiệm và đầu tư”.[21] Càng ngày cần phải giáo dục về việc xây dựng hòa bình đi từ những chọn lựa có chiều kích rộng lớn, trên bình diện bản thân, gia đình, cộng đoàn và chính trị. Tất cả chúng ta đều có trách nhiệm bảo vệ và săn sóc thiên nhiên. Trách nhiệm này không có biên giới. Theo nguyên tắc phụ đới, điều quan trọng là mỗi người dấn thân theo bình diện tương ứng với mình, hoạt động để vượt thắng sự ưu tiên dành cho tư lợi. Các chủ thể khác nhau trong xã hội dân sự và các tổ chức phi chính phủ có vai trò gây ý thức và huấn luyện. Các tổ chức này đang quyết liệt và quảng đại dấn thân phổ biến trách nhiệm môi sinh, trách nhiệm này ngày càng phải đi kèm sự tôn trọng “môi sinh nhân loại”. Ngoài ra, cần nhắc nhở trách nhiệm của các cơ quan truyền thông trong lãnh vực này, bằng cách đề nghị những kiểu mẫu tích cực cần noi theo. Quan tâm chăm sóc môi sinh đòi phải có một cái nhìn xa và bao quát về thế giới; một nỗ lực chung và trách nhiệm để đi từ thái độ chỉ chú tâm đến những lợi lộc ích kỷ của đất nước tiến tới một cái nhìn ngày càng bao gồm những nhu cầu của mọi dân tộc. Chúng ta không thể dửng dưng đối với những gì xảy ra quanh chúng ta, vì sự suy thoái của bất kỳ miền nào trên trái đất cũng ảnh hưởng tới tất cả mọi người. Những quan hệ giữa các cá nhân, các nhóm xã hội và quốc gia, cũng như những quan hệ giữa con người và môi sinh, được kêu gọi đón nhận đặc tính tôn trọng và “bác ái trong chân lý”. Trong bối cảnh rộng rãi ấy, điều đáng mong ước hơn bao giờ hết là người ta cụ thể hóa và đạt được sự đồng thuận trong những cố gắng của cộng đồng quốc tế nhắm dần dần giải trừ võ trang hạt nhân và tiến tới một thế giới không còn loại võ khí này, nguyên sự hiện diện của các võ khí hạt nhân cũng đe dọa sự sống của trái đất và tiến trình phát triển toàn diện của nhân loại hiện tại và tương lai.
12. Giáo Hội có một trách nhiệm đối với thiên nhiên và cảm thấy phải thi hành trách nhiệm ấy, cả trong lãnh vực công cộng, để bảo vệ đất đai, nước và không khí là những món quà Thiên Chúa Tạo Hóa dành cho tất cả mọi người, và nhất là để bảo vệ con người chống lại nguy cơ hủy diệt chính mình. Thực vậy, sự suy thoái thiên nhiên có liên hệ chặt chẽ với nền văn hóa hình thành sự sống chung của con người, vì thế, khi “môi sinh nhân loại” được tôn trọng trong xã hội, cả môi sinh thiên nhiên cũng được lợi ích theo”.[22] Chúng ta không thể đòi người trẻ tôn trọng môi sinh, nếu họ không được giúp đỡ, trong gia đình và xã hội, để tôn trọng chính bản thân họ: cuốn sách thiên nhiên thực là duy nhất, về phương diện môi sinh cũng như về phương diện luân lý đạo đức bản thân, gia đình và xã hội.[23] Các nghĩa vụ đối với môi sinh xuất phát từ những nghĩa vụ đối với con người xét nơi chính bản thân và trong quan hệ với tha nhân. Vì thế, cha vui lòng khuyến khích việc giáo dục về trách nhiệm môi sinh, - như cha đã nói đến trong thông điệp “Bác ái trong chân lý”, - để bảo tồn một “môi sinh nhân loại đích thực” và tiếp đến tái quyết liệt củng cố tính chất bất khả xâm phạm của của sự sống con người trong mọi giai đoạn và trong mọi hoàn cảnh, củng cố phẩm giá của con người và sứ mạng không thể thay thế được của gia đình, trong đó người ta giáo dục về tình yêu đối với tha nhân và tôn trọng thiên nhiên.[24] Cần bảo tồn gia sản nhân sự của xã hội. Gia sản các giá trị này có nguồn gốc và được ghi trong luật luân lý tự nhiên, vốn là nền tảng sự tôn trọng con người và thiên nhiên.
13. Sau cùng không nên quên sự kiện rất quan trọng là bao nhiêu người tìm được yên hàn và an bình, cảm thấy được đổi mới và nâng đỡ khi họ tiếp xúc trực tiếp với vẻ đẹp và sự hài hòa của thiên nhiên. Vì thế, có một sự hỗ tương: khi chúng ta chăm sóc thiên nhiên, chúng ta nhận thấy rằng qua thiên nhiên, Thiên Chúa cũng chăm sóc chúng ta. Đàng khác, một quan niệm đúng đắn về quan hệ của con người với môi sinh không đưa tới sự tuyệt đối hóa thiên nhiên và cũng không coi nó quan trọng hơn chính con người. Sở dĩ Huấn Quyền của Hội Thánh tỏ ra dè dặt đối với một quan niệm về môi sinh theo xu hướng coi môi sinh và sinh vật là trung tâm, là vì quan niệm ấy loại bỏ sự khác biệt về thực thể và cứu cánh giữa con người và các sinh vật khác. Như thế, trong thực tế người ta loại bỏ căn tính và vai trò cao trọng hơn của con người, và cổ vũ một quan niệm “cá đối bằng đầu” về phẩm giá của mọi sinh vật. Và thế là người ta chiều theo một thứ chủ thuyết phiếm thần mới, với những sắc thái tân ngoại giáo, coi ơn cứu độ con người xuất phát từ thiên nhiên mà thôi, thứ thiên nhiên được hiểu theo nghĩa hoàn toàn duy tự nhiên. Trái lại, Giáo Hội mời gọi đặt vấn đề một cách quân bình, trong niềm tôn trọng qui luật mà Đấng Tạo Hóa đã ghi khắc nơi công trình của Ngài, khi ủy thác cho con người vai trò gìn giữ và quản trị thiên nhiên trong tinh thần trách nhiệm, vai trò mà con người không được lạm dụng, và cũng không thể từ khước. Thực vậy, cả lập trường chống lại sự tuyệt đối hóa kỹ thuật và quyền năng của con người, cũng có thể trở thành là một sự xâm phạm không những chống lại thiên nhiên, nhưng còn làm thương tổn chính phẩm giá con người.
14. “Nếu bạn muốn hòa bình, hãy bảo tồn thiên nhiên”. Sự tìm kiếm hòa bình từ phía mọi người thiện chí chắc chắn sẽ dễ dàng hơn nhờ cùng nhìn nhận quan hệ không thể tách rời giữa Thiên Chúa, con người và toàn thể thiên nhiên. Được Mạc Khải của Chúa soi sáng và noi theo Truyền Thống của Giáo Hội, các tín hữu Kitô đóng góp phần của mình. Họ nhìn vũ trụ với các kỳ công dưới ánh sáng hoạt động sáng tạo của Chúa Cha và công trình cứu chuộc của Chúa Kitô, Đấng đã dùng cái chết và sự sống lại của Ngài mà hòa giải cùng Thiên Chúa, “mọi sự trên trái đất cũng như trên trời” (Cl 1,20). Chúa Kitô chịu đóng đinh và sống lại, đã ban cho nhân loại Thần Trí Thánh Hóa của ngài, hướng dẫn con đường lịch sử, trong khi chờ đợi ngày quang lâm của Chúa, khai mạc “trời mới đất mới” (2 Pr 3,13), trong đó công lý và hòa bình sẽ hiển trị vĩnh cửu. Vì thế, bảo vệ môi sinh thiên nhiên để kiến tạo một thế giới hòa bình, đó là một nghĩa vụ của mỗi người. Đó là một thách đố cấp thiết cần phải đương đầu với một quyết tâm chung và được đổi mới; đó là một cơ hội Chúa quan phòng ban để trao cho các thế hệ trẻ viễn tượng một tương lai tốt đẹp hơn cho mọi người. Ước gì các vị lãnh đạo các quốc gia và những người ở mọi cấp độ quan tâm đến số phận của nhân loại hãy ý thức điều này: việc bảo tồn thiên nhiên và thực hiện hòa bình là những thực tại có liên hệ mật thiết với nhau! Vì thế, cha mời gọi tất cả các tín hữu hãy dâng lời khẩn nguyện nồng nhiệt lên Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa toàn năng và là Thiên Chúa Cha từ bi, xin Chúa làm cho tâm hồn mỗi người nam nữ đón nhận và sống lời kêu gọi khẩn thiết: Nếu bạn muốn xây dựng hòa bình hãy bảo tồn thiên nhiên.
Từ Vatican, ngày 08 tháng Mười Hai năm 2009
Bênêdictô XVI


[1] Sách GL HTCG, số 198.
[2] Benedetto XVI, Sứ điệp ngày hòa bình thế giới 2008, 7.
[3] Dante Alighieri, Divina Commedia, Paradiso, XXXIII, 145.
[4] Gioan Phaolô II, Sứ điệp ngày hòa bình thế giới 1990, số 1.
[5] Lett. ap. Octogesima adveniens, 21.
[6] Gioan Phaolô II, Sứ điệp ngày hòa bình thế giới 1990, số 10.
[7] Cfr. Benedetto XVI, Caritas in veritate, 32.
[8] Eraclito di Efeso (535 a.C. ca. – 475 a.C. ca.), Frammento 22B124, in H. Diels-W. Kranz, Die Fragmente der Vorsokratiker, Weidmann, Berlin 19526.
[9] X. Benedetto XVI, Caritas in veritate, 37.
[10] Giovanni Paolo II, Centesimus annus, 37.
[11] X. Benedetto XVI, Caritas in veritate, 50.
[12] X. Giovanni Paolo II, Sollicitudo rei socialis, 34.
[13] Benedetto XVI, Caritas in veritate, 37.
[14] Hội Đồng Tòa Thánh về Công Lý và Hòa Binh, Học thuyết xã hội của Hội Thánh, 467; X. Paolo VI, Populorum progressio, 17.
[15] X. Giovanni Paolo II, Centesimus annus, 30-31.43.
[16] Benedetto XVI, Caritas in veritate, 49.
[17] Benedetto XVI, Caritas in veritate, 49.
[18] X. San Tommaso d’Aquino, S. Th., II-II, q. 49, 5.
[19] Paolo VI, Populorum progressio, 43.
[20] Benedetto XVI, Caritas in veritate, 69.
[21] Giovanni Paolo II, Centesimus annus, 36.
[22] Benedetto XVI, Caritas in veritate, 51.
[23] Benedetto XVI, Caritas in veritate, 15.51.
[24] X.  Benedetto XVI, Caritas in veritate, 28.51.61; Giovanni Paolo II, Centesimus annus, 38.39.