Bản dịch của Tổng Giáo Phận Sài Gòn năm 1993
LỜI MỞ ÐẦU
"Lạy Cha... sự
sống đời đời, chính là (họ) nhận biết
Cha, Ðấ ng duy nhất là Thiên Chúa thật, và nhận biết
Ðấng Cha đã sai đến, là Ðức Giê-su Ki-tô" (Ga
17, 3) "Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ chúng ta, ... muốn
cho mọi người được cứu và nhận biết
chân lý" (1Tm 2, 3-4). "Ngoài danh Ðức Giê-su, dưới
gầm trời này, không có một danh nào khác đã được
ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh
đó mới được cứu độ" (Cv 4, 12)
I. SỰ SỐNG CON NGƯỜI - NHẬN BIẾT
VÀ YÊU MẾN THIÊN CHÚA
1 - Thiên
Chúa là Ðấng Toàn Thiện và Hạnh Phúc khôn lường. Theo
ý định nhân hậu, Người đã tự ý tạo
dựng con người, để họ được
thông phần sự sống vĩnh phúc. Do đó,
Người đã đến với con người. Thiên
Chúa kêu gọi con người, giúp họ tìm kiếm, nhận
biết và đem hết tâm lực yêu mến Người. Thiên Chúa triệu tập mọi người đã
bị tội lỗi phân tán để hợp nhất thành
gia đình của Người là Hội Thánh. Ðể thực hiện điều này, khi tới
thời viên mãn, Người đã cử Chúa Con đến
làm Ðấng chuộc tội và cứu độ. Trong và nhờ Người Con ấy, Thiên Chúa kêu gọi
loài người trở nên nghĩa tử trong Chúa Thánh Thần,
và do đó, được thừa kế đời sống
hạnh phúc của Người.
2 - Ðể cho tiếng
gọi ấy vang lên trong toàn cõi địa cầu, Ðức
Ki-tô đã sai phái các tông đồ do Người tuyển
chọn, trao cho các ông nhiệm vụ loan báo Tin Mừng : "Hãy đi, và làm cho muôn dân trở
thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha,
Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ
những điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho
đến tận thế" (Mt 28, 19-20). Vững tin
vào sứ mạng ấy, các tông đồ ra đi rao giảng
khắp nơi, có Chúa cộng tác với các ông và dùng những
dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời
các ông rao giảng (Mc 16, 20).
3 - Những ai
đã nhờ ơn Chúa giúp đón nhận lời kêu gọi
của Ðức Ki-tô và tự nguyện đáp ứng,
cũng được tình yêu Ðức Ki-tô thúc đẩy
đi loan báo Tin Mừng khắp nơi trên thế giới. Kho tàng đã được lãnh nhận từ các
tông đồ này đã được các người kế
nhiệm bảo toàn một cách trung tín. Mọi ki-tô hữu
cũng được kêu gọi truyền đạt kho
tàng ấy từ thế hệ này đến thế hệ
khác, bằng lời rao giảng đức tin, bằng cách
sống đức tin trong tình chia sẻ huynh đệ, và
diễn tả đức tin đó trong phụng vụ và
kinh nguyện ( Cv 2, 42).
II. TRUYỀN ÐẠT ÐỨC TIN - VIỆC HUẤN
GIÁO
4 - Ngay từ thời
Hội Thánh sơ khai, thuật ngữ "huấn giáo"
được dùng để gọi toàn bộ các nỗ lực
được huy động trong Hội Thánh để
đào tạo môn đệ, để giúp con người
tin Ðức Giê-su là Con Thiên Chúa, hầu nhờ đức tin , họ được sống nhân danh
Người, để giáo dục và chỉ dẫn họ
trong cuộc sống đời này, và như thế, xây dựng
Thân Thể Ðức Ki-tô(CT 1; 2)
5 - "Huấn
giáo là giáo dục đức tin cho trẻ em, thanh niên và
người lớn, gồm đặc biệt là việc
giảng dạy giáo lý Ki-tô giáo một cách có tổ chức
và hệ thống, nhằm khai tâm họ vào cuộc sống
ki-tô hữu sung mãn"(CT 18).
6 - Trong sứ mạng
mục vụ của Hội Thánh, có một số yếu tố
liên hệ đến huấn giáo, chuẩn bị cho huấn
giáo hoặc bắt nguồn từ huấn giáo, như: loan
báo Tin Mừng sơ khởi tức là rao giảng của vị
thừa sai để khơi dậy đức tin; nghiên cứu
những lý lẽ để biện minh cho đức tin; sống
tích cực đời ki-tô hữu, cử hành các bí tích, hội
nhập vào cộng đoàn Hội Thánh, làm chứng bằng
hoạt động tông đồ và truyền giáo. Dù không lẫn
lộn, nhưng huấn giáo vẫn đi đôi với những
yếu tố này... ( CT 18 )
7 - "Huấn
giáo liên kết mật thiết với toàn bộ đời
sống của Hội Thánh. Chính nhờ Huấn giáo, Hội
Thánh không những phát triển về địa dư và số
lượng mà nhất là sự tăng trưởng bên
trong và đáp ứng ý định cứu độ của
Thiên Chúa"(CT 13)
8 - Những thời
kỳ Hội Thánh được canh tân cũng là những
thời điểm nổi bật về huấn giáo. Thực vậy, vào thời các giáo phụ, người
ta thấy có những vị thánh Giám Mục dành một phần
quan trọng của thừa tác vụ cho huấn giáo.
Ðó là các thánh Sy-ri-lô Giám mục Giê-ru-sa-lem và Gio-an
Kim Khẩu, Am-rô-xi-ô và Âu-Tinh, cùng với nhiều giáo phụ
khác. Các ngài đã để lại những tác phẩm huấn
giáo mẫu mực
9 - Huấn giáo luôn nhận
được nguồn năng lực mới từ các
Công Ðồng. Về phương diện nầy, Công đồng
Tren-tô là một gương mẫu phải nêu lên : Các hiến
chế và sắc lệnh của Công Ðồng này đã
đưa huấn giáo lên hàng ưu tiên; Công Ðồng đã
khơi nguồn cho quyển Giáo Lý Rô-ma là một tác phẩm
hàng đầu của loại sách yếu lược trình
bày giáo lý Ki-tô giáo; Công Ðồng đã khích lệ việc tổ
chức dạy và học giáo lý và đã thúc đẩy việc
phát hành nhiều bộ sách giáo lý nhờ những đóng góp
của các Giám mục, các nhà thần học thánh thiện
như : Thánh Phê-rô Ca-ni-xi-ô; Ca-rô-lô Bô- rô-mê-ô; Tô-ri-bi-ô thành
Mô-giô-vê-rô, Rô-be-tô Bê-la-mi-nô.
10 - Vì thế, không
lạ gì sau Công Ðồng Va-ti-ca-nô II, nhiều
người lại chú ý đến huấn giáo. Các văn
kiện Toà Thánh cho thấy rõ điều nầy: - Chỉ
thị đại cương về huấn giáo - (1971) -
Các khóa họp Thượng hội đồng Giám mục về
Phúc Âm Hoá - (1974) và về huấn giáo (1977 )
- Các tông huấn "Rao Giảng Tin Mừng"- (1975) và
"Giảng Dạy Giáo Lý" (1979). Khóa họp bất
thường Thượng hội đồng Giám mục
năm 1985 xin "cho soạn ra một quyển sách giáo lý hoặc
một toát yếu thu gọn toàn bộ đạo lý công
giáo về mặt đức tin cũng như luân lý"
(Bài báo cáo chung kết II B 4. ). Ðức
Thánh Cha Gio-an Phao-lô II đã coi ước
nguyện của Thượng Hội Ðồng Giám Mục
như ước nguyện của chính mình, khi nhìn nhận
rằng: "Niềm mong ước đó hoàn toàn đáp ứng
một nhu cầu thiết thực của Hội Thánh toàn cầu
và của các Giáo Hội địa phương" (Diễn
từ 7-12-1985). Ngài đã huy động tất
cả để thực hiện niềm mong ước
đó của các nghị phụ.
III. QUYỂN GIÁO LÝ NÀY ÐƯỢC VIẾT
VỚI MỤC ÐÍCH GÌ? CHO AI ?
11 - Mục tiêu của
bộ sách giáo lý này là trình bày một cách có tổ chức và
tổng hợp những nội dung cốt yếu và căn
bản của đạo lý công giáo về mặt đức
tin cũng như luân lý, dưới ánh sáng Công Ðồng
Va-ti-ca-nô II và toàn bộ Thánh Truyền. Nguồn
tư liệu chính của bộ sách là Thánh Kinh, các giáo phụ,
phụng vụ và huấn quyền của Hội Thánh.
Sách được dùng "như bản quy chiếu cho các
sách giáo lý cũng như toát yếu được soạn
ra trong các nước " (THÐGM 1985).
12 - Quyển sách này chủ
yếu được dành cho các vị phụ trách huấn
giáo: đứng đầu là các Giám mục, với tư
cách Thầy dạy đức tin và mục tử trong Hội
Thánh. Sách được cung cấp cho các ngài như dụng
cụ chu toàn trọng trách dạy dỗ
Dân Chúa. Qua các ngài, sách đến tay các
người soạn giáo lý, các linh mục và giáo lý viên. Mọi tín hữu khác cũng sẽ đọc
được trong đó nhiều điều bổ ích.
IV. BỐ CỤC CỦA QUYỂN GIÁO LÝ
13 - Bố cục
sách dựa theo truyền thống cổ điển của
các sách giáo lý, được soạn xoay quanh bốn trục
chính : việc tuyên xưng đức tin
trong bí tích Thánh Tẩy (kinh Tin Kính), các bí tích, đời sống
đức tin (các điều răn), và kinh nguyện của
người tín hữu (kinh Lạy Cha)
Phần Thứ Nhất :
Tuyên Xưng Ðức Tin
14 - Những ai thuộc
về Ðức Ki-tô nhờ đức tin và phép rửa, phải
tuyên xưng đức tin trước mặt mọi
người (Mt 10, 32; Rm 10, 9). Nhằm mục đích ấy,
quyển Giáo Lý này trước hết trình bày nội dung của
mặc khải và đức tin : với
Mặc Khải, Thiên Chúa ngỏ lời và ban chính mình cho con
người; nhờ đức tin con người đáp lời
Thiên Chúa (đoạn 1). Kinh Tin Kính tóm lược những hồng
ân mà Thiên Chúa ban cho con người, vì Người là Tác Giả
mọi điều thiện hảo, là Ðấng Cứu Chuộc,
là Ðấng Thánh Hoá. Các tư tưởng trên xoay quanh "ba
điều" tuyên xưng trong bí tích Thánh Tẩy : - Tin một
Thiên Chúa duy nhất: Chúa Cha toàn năng, Ðấng Sáng Tạo;
- Tin Ðức Giê-su Ki-tô là Con của Người, là Ðức
Chúa và là Ðấng cứu độ chúng ta; - và tin Chúa Thánh Thần
trong Hội Thánh (đoạn 2)
Phần thứ hai: Các bí tích đức tin
15 - Phần thứ
hai trình bày ơn cứu độ, đã được Ðức
Giê-su Ki-tô và Chúa Thánh Thần thực hiện một lần
dứt khoát, nay thực hiện như thế nào trong các
hành động thánh thiêng của phụng vụ Hội
Thánh (đoạn 1), đặc biệt trong bảy bí tích
(đoạn 2).
Phần thứ ba: Ðời sống đức
tin
16 - Phần thứ
ba trình bày cùng đích tối hậu của con người
được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa là
để được hưởng hạnh phúc, và nêu lên
những con đường đưa đến hạnh
phúc: - sống ngay thẳng và tự do nhờ lề luật
và ân sủng của Chúa (đoạn 1) ;
- bằng cách thực thi hai mệnh lệnh "mến
Chúa, yêu người" được triển khai trong
Mười Ðiều Răn của Thiên Chúa (đoạn 2).
Phần thứ tư: Kinh nguyện trong đời
sống đức tin
17 - Phần
cuối cùng nói về ý nghĩa và tầm quan trọng của
kinh nguyện trong đời sống các tín hữu (đoạn
1), kết thúc với một giải thích ngắn về bảy
lời nguyện xin trong kinh Lạy Cha (đoạn 2). Trong các lời
nguyện xin này, chúng ta gặp được toàn bộ
ơn lành mà con người mong đợi và Cha trên trời
hằng muốn ban cho chúng ta.
V. NHỮNG CHỈ DẪN THỰC TIỄN CHO
VIỆC SỬ DỤNG SÁCH NÀY
18 - Chúng tôi quan niệm
sách này như một bản trình bày có hệ thống về
toàn bộ đức tin công giáo. Vậy phải đọc
sách này như một khối thống nhất
. Nhiều chỉ dẫn được ghi ngoài lề
bản văn (số nghiêng, chỉ những đoạn
khác cùng một đề tài) và bảng tra theo
chủ đề được đặt ở cuối
sách, cho thấy rõ mỗi chủ đề trong liên hệ với
toàn bộ nội dung đức tin.
19 - Thường
các bản văn Thánh Kinh không được trích nguyên
văn, nhưng chỉ ghi xuất xứ (với
"x") ở cước chú. Ðể hiểu
nghĩa đoạn văn ấy sâu xa hơn, nên tra chính các
bản văn đó. Các tham chiếu Thánh
Kinh này rất hũu ích cho huấn giáo.
20 - Những đoạn
in chữ nhỏ là những ghi chú thuộc loại sử học,
hộ giáo hoặc là những bài tường trình tín lý bổ
sung.
21 - Các đoạn
trích dẫn in chữ nhỏ, lấy từ những văn
kiện các giáo phụ, phụng vụ, tông huấn hoặc
hạnh các thánh, được dùng để giúp bản
văn tín lý thêm phong phú. Thường những
bản văn ấy được chọn nhằm sử
dụng trực tiếp trong Huấn giáo.
22 - Cuối mỗi mục,
có một số câu ngắn tóm lược cốt lõi của
bài học. Những câu "TÓM LƯỢC"
ấy nhằm đề xuất những công thức tổng
hợp và dễ nhớ giúp việc huấn giáo ở các
địa phương.
VI. NHỮNG THÍCH NGHI CẦN THIẾT
23 - Sách này nhấn
mạnh đến phần trình bày đạo lý. Thật vậy,
chúng tôi muốn giúp độc giả hiểu sâu rộng về
đức tin, nhờ đó, đức tin được
trưởng thành, đâm rễ vào cuộc sống và tỏa
sáng thành lời chứng (CT 20-22; 25).
24 - Chính vì nhắm
mục đích này, chúng tôi không có ý định thực hiện
những thích nghi trong cách trình bày giáo lý cũng như những
phương pháp huấn giáo theo những đòi hỏi do
khác biệt về văn hóa, tuổi tác, mức trưởng
thành tinh thần, hoàn cảnh xã hội và Giáo Hội... của
những người học giáo lý. Việc
thích nghi cần thiết ấy là trách nhiệm của những
người soạn sách giáo lý chuyên biệt, và nhất là của
những vị giảng dạy. Người giảng
dạy phải "trở nên tất cả cho mọi
người" (1Cr 9, 22), để chinh phục mọi
người cho Ðức Giê-su Ki-tô... ,
đừng tưởng rằng chỉ có một hạng
người duy nhất được giao cho mình, vì thế
có thể tùy tiện giảng dạy và huấn luyện mọi
người tín hữu như nhau theo cùng một
phương pháp duy nhất, bất di bất dịch. Phải
nhớ rằng, trong Ðức Giê-su Ki-tô, có người
như trẻ sơ sinh, có người như thiếu niên,
những người khác như đã trưởng thành ...
Khi truyền đạt các mầu nhiệm đức tin và
các qui luật sống, người giảng dạy phải
thích nghi với tinh thần và trí hiểu của người
nghe ( Giáo lý Rô-ma, lời tựa 11).
KẾT: TRÊN HẾT MỌI SỰ LÀ ÐỨC ÁI
25 - Ðể kết
thúc phần trình bày này, thiết tưởng nên nhắc lại
nguyên tắc mục vụ đã được quyển
Giáo Lý Rô-ma nêu ra :
Tất
cả mục đích của giáo lý và lời giảng dạy
phải được đặt trong Tình Yêu vĩnh cửu. Dù có thể trình
bày thật khéo léo điều phải tin, cậy hay làm,
nhưng điều chính yếu là phải làm nổi bật
lòng yêu mến Chúa, để mọi người hiểu rằng
mọi hành vi tốt theo đúng nghĩa Kitô giáo không có nguồn
gốc nào khác ngoài Tình Yêu và không có cùng đích nào khác ngoài
Tình Yêu.
No comments:
Post a Comment