THÔNG ÐIỆP
REDEMPTORIS MISSIO
CỦA ÐỨC
GIOAN PHAOLÔ II
NGÀY
7/12/1990
Mở Ðầu
Việc truyền
giáo mà Chúa Kitô là Ðấng Cứu Chuộc đã ủy thác cho Giáo Hội cần phải hoàn tất
thì còn rất xa vời. Trong lúc đệ nhị Thiên Niên kể từ khi Chúa Kitô giáng sinh
sắp qua đi, tình hình nhân loại tổng quan cho thấy rằng việc truyền giáo ấy mới
chỉ là bắt đầu, nên chúng ta cần phải hết sức dấn thân cho công việc này. Chính
Thần Linh là Ðấng thôi thúc chúng ta loan truyền các việc cao cả của Thiên Chúa: "Nếu tôi rao giảng Phúc Âm thì
đâu có gì để mà tự hào. Vì đó là phận sự tôi cần phải làm. Khốn cho tôi nếu tôi
không rao giảng Phúc Âm!" (1Cor 9:16).
Tôi cảm thấy
rất cần phải nhân danh toàn thể Giáo Hội lập lại tiếng kêu ấy của Thánh Phaolô.
Từ đầu Giáo Triều của mình, Tôi đã muốn đi đến tận cùng thế giới để nói lên mối
quan tâm truyền giáo này rồi. Việc Tôi trực tiếp gặp gỡ các người chưa nhận
biết Chúa Kitô đã làm tôi càng xác tín hơn nữa về việc khẩn
thiết của hoạt động truyền giáo, chủ đề của Bức Thông Ðiệp
Tôi Tôi đang viết đây.
Công Ðồng
Chung Vaticanô II đã tìm cách canh tân đời sống và hoạt động của Giáo Hội theo
chiều hướng cần thiết của thế giới hiện đại. Công Ðồng nhấn mạnh đến "bản
chất truyền giáo" của Giáo Hội, căn cứ vào việc sinh động nơi chính sứ vụ
của Chúa Ba Ngôi. Bởi đó, trọng tâm của việc truyền giáo là ở chính bản tính
của đời sống Kitô giáo, đồng thời nó cũng là nguồn mạch cho việc đại kết:
"để tất cả họ được nên một... cho thế gian tin rằng Cha đã sai Con"
(Jn.17:21).
2-Công Ðồng đã gặt hái được nhiều hoa trái trong lãnh vực hoạt động truyền
giáo. Hoạt động truyền giáo đã tăng tiến tại các Giáo Hội địa phương, bao gồm
Giám Mục, giáo sĩ và các nhân viên làm việc tông đồ. Việc hiện diện của các
cộng đồng Kitô hữu lại càng rõ ràng hơn trong sinh hoạt của các quốc gia, và
việc hiệp thông giữa các Giáo Hội đã dẫn tới một cuộc trao đổi sống động những
lợi ích và tặng ân thiêng liêng. Việc dấn thân của thành phần giáo dân trong
việc truyền bá phúc âm hoá đang làm thay đổi sinh hoạt của giáo hội, trong khi
đó, các Giáo Hội riêng lại càng mong muốn gặp gỡ các phần tử của những Giáo Hội
Kitô giáo khác, cũng như của những tôn giáo khác, để đối thoại và hợp tác với
họ. Nhất là đang có một ý thức mới về hoạt động truyền giáo là một vấn
đề của tất cả mọi Kitô hữu, của hết mọi giáo phận và giáo xứ, của các tổ
chức và đoàn thể trong Giáo Hội.
Tuy nhiên,
trong "mùa xuân mới" này của Kitô giáo, vẫn còn có một khuynh hướng
tiêu cực không thể phủ nhận được, một khuynh hướng khiến Tôi phải viết Văn Kiện
này để phác ra cách thức thắng vượt nó. Hoạt động truyền giáo đặc biết nhắm đến
"các dân nước" (ad gentes) như thể đang xìu xuống, và khuynh
hướng này chắc chắn không hợp với những chiều hướng của Công Ðồng, cũng như
không hợp với các lời kêu gọi của Huấn Quyền sau Công Ðồng. Những khó khăn cả
trong lẫn ngoài đã làm suy yếu đi lực đẩy làm việc truyền giáo của Giáo Hội
hướng tới các người ngoài Kitô giáo, một sự kiện cần phải được tất cả mọi người
tin vào Chúa Kitô quan tâm lưu ý đến. Bởi vì, động lực truyền giáo bao giờ cũng
là dấu chỉ sinh động trong lịch sử của Giáo Hội thế nào, thì việc yếu kém
truyền giáo là dấu hiệu khủng hoảng đức tin như vậy (xem ÐTC Phaolô VI, Sứ Ðiệp
cho Ngày Thế Giới Truyền Giáo, 1972,Insegnamenti X -1972 -522).
Hai mươi lăm
năm sau khi Công Ðồng kết thúc và phổ biến Sắc Lệnh về Hoạt Ðộng Truyền
Giáo Ad Gentes, mười lăm năm sau Tông Huấn Evangelii
Nuntatiandi do Ðức Phaolô VI ban bố, và để tiếp tục giáo huấn thuọ?
huấn quyền của các vị tiền nhiệm của mình (xem Ðức Bênêđíctô XV, Tông Thư Maximum
Illudngày 30-11-1919: AAS 11 -1919, 440-455; Ðức Piô XI, Thông Ðiệp Rerum
Ecclesiae ngày 28-2-1926: AAS 18 -1926 -65-83; Ðức Piô XII, Thông ÐiệpEvangelii
Praecones ngày 2-6-1951: AAS 43 -1951 -497-528; Thông Ðiệp Fidei
Donum ngày 21-4-1957: AAS 49 -1957 -225-248; Ðức Gioan XXIII, Thông
ÐiệpPeinceps Pastorum ngày 28-11-1959: AAS 51 -1959 -833-864), Tôi
muốn kêu mời Giáo Hội hãy canh tân lại việc dấn thân truyền giáo của
mình. Văn kiện này nhắm đến việc canh tân nội tâm về đức tin và đời sống
Kitô giáo. Vì hoạt động truyền giáo giúp vào việc canh tân Giáo Hội, vào việc
làm tái sinh động đức tin cũng như căn tính Kitô giáo, và vào việc làm bừng lên
lòng nhiệt thành và niềm phấn khởi mới. Ðức tin được tăng cường khi đem
đức tin ban phát cho kẻ khác! Chính trong khi dấn thân thực hiện việc
truyền giáo đại đồng của Giáo Hội lại chính là lúc làm cho việc truyền bá phúc
âm hoá mới mẻ của dân Kitô giáo được khởi sắc và đỡ nâng.
Thế nhưng,
điều làm Tôi càng mạnh mẽ hơn nữa trong việc công bố tính cách khẩn thiết của
vấn đề truyền giáo phúc âm hoá, đó là sự kiện vấn đề truyền giáo phúc âm hoá
này là công việc trọng yếu Giáo Hội có thể đem cống hiến cho mọi người, cũng
như cho cả loài người trong thế giới tân tiến ngày nay, một thế giới đã đạt
được những thành đạt tuyệt vời, song cũng là một thế giới hình như đã mất đi
cảm quan về những thực tại tối thượng và về chính việc hiện hữu của mình. Tôi
đã viết trong Bức Thông Ðiệp đầu tiên của Tôi là, "Chúa Kitô Ðấng Cứu
Chuộc đã hoàn toàn tỏ cho con người thấy được bản thân họ... Con người muốn
thấu triệt được mình... phải... đến gần Chúa Kitô... Ơn Cứu Chuộc được thực
hiện nhờ Thập Giá đã hoàn toàn phục hồi cho con người phẩm vị của họ và trả lại
ý nghĩa cho đời sống của họ trên thế gian này" (Redemptor Hominis -4/3/1979
-đoạn 10: AAS 71 -1979 -274f).
Tôi cũng còn
có những lý do và mục tiêu khác nữa: đó là để đáp lại nhiều lời yêu cầu xin ban
bố một văn kiện như thế này; để làm sáng tỏ những ngờ vực và mập mờ liên quan
đến hoạt động truyền giáo ad gentes, cũng như để công nhận việc
những anh chị em gương mẫu đã dấn thân cho hoạt động truyền giáo và tất cả
những ai nâng đỡ họ; để nuôi dưỡng các ơn gọi truyền giáo; để khích lệ các thần
học gia trong việc tìm tòi và quảng diễn một cách có phương pháp những khía
cạnh khác nhau của hoạt động truyền giáo; để tạo nên một động lực mới mẻ cho
hoạt động truyền giáo, bằng cách nuôi dưỡng việc dấn thân của các Giáo Hội
riêng -nhất là những giáo hội mới được hình thành -trong việc trao đổi các thừa
sai; và để bảo đảm với những người ngoài Kitô giáo, nhất là các chính quyền của
các xứ sở đang có hoạt động truyền giáo rằng, tất cả những điều này chỉ có một
mục đích duy nhất, đó là phụng sự con người bằng việc tỏ ra cho họ tình yêu
Thiên Chúa được bộc lộ nơi Chúa Giêsu Kitô.
3-Hỡi các dân tộc khắp mọi nơi, hãy mở cửa cho Chúa Kitô! Phúc Âm của Người không bao giờ làm mất đi tự do của con người, mất đi
việc tôn trọng cần phải có đối với mọi nền văn hoá cũng như với bất cứ những gì
tốt lành nơi mỗi một tôn giáo. Bằng việc chấp nhận Chúa Kitô là quí vị tự mở
lòng mình ra cho Lời tối hậu của Thiên Chúa, cho Ðấng mà trong Người Thiên Chúa
đã hoàn toàn tỏ mình ra và đã chỉ cho chúng ta đường lối đến cùng Ngài.
Con số những
người không biết Chúa Kitô và không thuộc về Giáo Hội tăng liên tục. Thật vậy,
nó đã tăng gần như gấp đôi kể từ khi kết thúc Công Ðồng. Nếu chúng ta để ý đến
phần nhân loại rất đông được Chúa Cha yêu thương và sai Con Ngài đến vì họ này,
thì mới thấy rõ được tính cách khẩn thiết của việc Giáo Hội truyền giáo.
Ngoài ra,
thời điểm của chúng ta đây còn hiến cho Giáo Hội những cơ hội mới trong lãnh
vực này: đó là cơ hội sụp đổ của những triết thuyết áp đảo và những thể chế
chính trị, như chúng ta chứng kiến thấy; cơ hội thế giới mở mang ranh giới và
xích lại gần gũi nhau hơn, nhờ vấn đề phát triển phương tiện truyền thông; cơ
hội con người biết xác nhận các giá trị Phúc Âm, được Chúa Giêsu thể hiện trong
cuộc sống của Người (như bình an, công chính, tình huynh đệ, quan tâm đến thành
phần nghèo); và cơ hội phát triển của một thứ kinh tế và kỹ thuật vô hồn chỉ
thúc đẩy con người tìm kiếm chân lý về Thiên Chúa, về con người và về ý nghĩa
của chính cuộc sống.
Thiên Chúa
đang mở ra trước mắt Giáo Hội một chân trời nhân loại hết sức thuận lợi cho
việc gieo vãi Phúc Âm. Tôi cảm thấy rằng đã đến lúc tất cả năng lực của Giáo
Hội cần phải dấn thân vào một việc truyền bá phúc âm hoá mới, cũng như vào việc
truyền giáo ad gentes. Không một tín hữu nào tin tưởng vào Chúa
Kitô, không một tổ chức nào của Giáo Hội được phép tránh né nhiệm vụ trên hết
này: đó là nhiệm vụ phải loan truyền Chúa Kitô cho tất cả mọi dân nước.
I
CHÚA GIÊSU
KITÔ LÀ ÐẤNG CỨU ÐỘ DUY NHẤT
Trong Bức
Thông Ðiệp đầu tiên, Tôi đã đề ra một dự án cho Giáo Triều của mình, Tôi đã nói
rằng, "phận sự trọng yếu của Giáo Hội trong mọi thời đại, nhất là trong
thời của chúng ta đây, là hướng cái nhìn của con người, là hướng dẫn việc nhận
thức và cảm nghiệm của toàn thể nhân loại qui về mầu nhiệm Chúa Kitô"
(Ibid.: loc. cit., 275).
Việc truyền
giáo phổ quát của Giáo Hội được phát sinh từ niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô, như
đã được phát biểu trong bản tuyên xưng đức tin Chúa Ba Ngôi: "Tôi tin kính
một Chúa Giêsu Kitô, Con một Thiên Chúa, sinh bởi Ðức Chúa Cha từ trước muôn
đời ... Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi Người đã từ trời xuống
thế: bởi phép Ðức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria
và đã làm người" (Kinh Tin Kính của Hai Công Ðồng Chung Nicêa và
Contantinôpôli: DS 150). Biến cố Cứu Chuộc đã mang lại ơn cứu độ cho tất cả mọi
người, "vì mỗi một người đều được bao gồm trong mầu nhiệm Cứu Chuộc, và
Chúa Kitô đã vĩnh viễn hiệp nhất chính mình với từng người nơi mầu nhiệm
này" (Thông Ðiệp Redemptor Hominis, đoạn 13: loc. cit., 283).
Việc truyền giáo của Giáo Hội chỉ có ý nghĩa trong niềm tin và việc truyền giáo
này bắt nguồn từ niềm tin.
Tuy nhiên,
cũng căn cứ vào những đổi thay đã xẩy ra trong thời đại tân tiến ngày nay, cũng
như căn cứ vào việc phát triển những tư tưởng mới về thần học, một số người đã
ngẫm nghĩ rằng: "Công việc truyền giáo nơi những người ngoài Kitô giáo
có còn thích ứng nữa hay chăng?" Nó chẳng phải đã được thay thế bằng
việc đối thoại liên tôn rồi sao? Việc tiến bộ của nhân loại không phải là mục
tiêu xứng hợp của việc Giáo Hội truyền giáo ư? Việc tôn trọng lương tâm và tự
do của con người đã không loại trừ đi tất cả mọi nỗ lực để làm cho con người
hoán cải rồi sao? Chẳng lẽ không thể nào đạt được ơn cứu độ nơi các tôn giáo
khác à? Vậy thì tại sao lại cần phải thực hiện hoạt động truyền giáo?
"Không ai đến với Cha mà
không qua Thày"
5-Nếu chúng ta trở về với thuở ban đầu của Giáo Hội, chúng ta sẽ thấy được
niềm xác tín rõ ràng, Chúa Kitô là Ðấng Cứu Ðộ duy nhất của tất cả mọi người,
là Ðấng duy nhất có thể tỏ Thiên Chúa ra và dẫn tất cả mọi người đến cùng Thiên
Chúa. Ðể trả lời cho giáo quyền Do Thái vặn hỏi các Tông Ðồ về việc chữa lành
một người bị què, Thánh Phêrô đã nói: "Nhờ danh Chúa Giêsu Kitô Nazarét là
Ðấng quí vị đóng đanh, Ðấng Thiên Chúa đã làm cho sống lại từ trong kẻ chết,
Ðấng mà nhờ Người người này đang lành mạnh đứng ở trước quí vị đây ... Không có
ơn cứu độ nơi một người nào khác, vì không có một danh hiệu nào dưới gầm trời
này được ban cho con người làm cho chúng ta được cứu độ" (Acts 4:10,12).
Câu phát biểu ngỏ với Hội Ðồng Do Thái ấy có một giá trị phổ quát, vì đối với
tất cả mọi dân nước -Do Thái cũng như Dân Ngoại -ơn cứu độ chỉ có thể phát xuất
từ Chúa Giêsu Kitô mà thôi.
Tính cách
phổ quát của ơn cứu độ nơi Chúa Kitô được cả Thánh Kinh Tân Ước nhắc đến. Thánh
Phaolô đã công nhận Chúa Kitô Phục Sinh là Chúa. Thánh nhân viết: "Mặc dù
có nhiều vị được gọi là thần trên trời dưới đất -như thật sự đã có nhiều ?thần?
và nhiều ?chúa? -nhưng đối với chúng ta chỉ có một Thiên Chúa duy nhất là Cha,
nhờ Ngài tất cả mọi sự có, và vì Ngài mà chúng ta hiện hữu, cũng như chỉ có một
Chúa duy nhất là Ðức Giêsu Kitô, nhờ Người tất cả mọi sự có và bởi Người chúng
ta sống động" (1Cor.8:5-6). Một Thiên Chúa duy nhất và một Chúa duy nhất
được Thánh Phaolô nhắc đến một cách tương phản với số đông "thần linh"
và "chúa tể" được chung chung chấp nhận. Thánh Phaolô tỏ ra phản lại
với thuyết đa thần nơi hoàn cảnh tôn giáo thời của thánh nhân, và nhấn mạnh đến
cái làm nên đặc tính của niềm tin Kitô giáo, đó là niềm tin vào một Thiên Chúa
duy nhất và vào một Chúa duy nhất được Thiên Chúa sai đến.
Trong Phúc
Âm Thánh Gioan, tính cách phổ quát cứu độ này của Chúa Kitô bao gồm tất cả mọi
khía cạnh thuộc sứ mệnh về ân sủng, chân lý và mạc khải của Người: Lời là
"ánh sáng thật đã chiếu soi mọi người" (Jn.1:9). Còn nữa, "chưa
ai đã từng thấy Thiên Chúa; duy Người Con một là Ðấng ở trong lòng Cha mới là
vị tỏ Cha ra" (Jn.1:18; x. Mt.11:27). Việc Thiên Chúa mạc khải được chấm
dứt và hoàn tất nơi Người Con duy nhất của Ngài: "Thiên Chúa đã nói với
cha ông chúng ta trong quá khứ bằng nhiều cách thức khác nhau; nhưng trong
những ngày sau hết này, Ngài đã nói với chúng ta nơi Người Con, Ðấng Ngài định
cho thừa hưởng tất cả mọi sự, và bởi Ðấng này Ngài đã dựng nên thế gian"
(Heb.1:1-2; x. Jn.14:6).
Nơi Lời mạc
khải cuối cùng này của Ngài, Thiên Chúa đã tỏ mình ra một cách khả dĩ trọn vẹn
nhất. Ngài đã mạc khải cho con người biết Ngài là ai. Việc mạc khải
mình ra sau hết này của Thiên Chúa là lý do sâu xa tại sao tự bản tính Giáo Hội
là truyền giáo. Giáo Hội không thể làm gì khác hơn là loan truyền Phúc Âm, tức
là loan truyền trọn vẹn chân lý Thiên Chúa đã giúp chúng ta biết về Ngài.
Chúa Kitô là
trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và nhân loại: "Chỉ có một Thiên Chúa
duy nhất và một trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người, đó là con
người Ðức Giêsu Kitô, Ðấng đã hiến mình làm giá chuộc cho tất cả mọi người, một
sự thật đã được chứng thực vào thời điểm của mình. Ðối với sự thật này, cha đã
được chỉ định để làm người rao giảng và làm tông đồ (cha nói thật chứ không nói
dối), làm thày dạy Dân Ngoại trong đức tin và chân lý" (1Tim.2:5-7; x.
Heb.4:14-16). Bởi thế, không ai có thể được hiệp thông với Thiên Chúa mà không
qua Chúa Kitô, nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần. Vai trò trung gian duy nhất
phổ quát của Chúa Kitô, không hề làm ngăn cản hành trình tiến đến với Thiên
Chúa, là đường lối chính Thiên Chúa thiết lập, một sự kiện Chúa Kitô đã thừa
biết. Mặc dầu cũng có những hình thức dự phần vào việc làm trung gian khác thể
loại và khác cấp độ, chúngchỉ có ý nghĩa và giá trị là do vai trò
trung gian riêng của Chúa Kitô mà thôi, và không được nghĩ rằng chúng song song
với hay bổ khuyết cho vai trò trung gian của Người.
6-Làm bất cứ điều gì đưa đến việc phân rẽ Lời và Ðức Giêsu Kitô là phản với
đức tin Kitô giáo. Thánh Gioan đã minh bạch nói rằng Lời, Ðấng "từ ban đầu
đã ở nơi Thiên Chúa" cũng chính là Ðấng "đã hoá thành nhục thể"
(Jn.1:2,14). Chúa Giêsu là Lời Nhập Thể -một ngôi vị duy nhất bất phân. Người
ta không thể phân tách Chúa Giêsu khỏi Ðức Kitô, hay nói về một "Chúa
Giêsu lịch sử" khác với "Ðức Kitô của đức tin". Giáo Hội công
nhận và tuyên xưng Chúa Giêsu là "Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống"
(Mt.16:16): Ðức Kitô này chính là Chúa Giêsu Nazarét; Người là Lời Thiên Chúa
làm người vì phần rỗi của tất cả mọi người. Nơi Ðức Kitô "trọn vẹn thần
tính ngự trị một cách thể lý" (Col.2:9) và "tất cả chúng ta đã nhận
lãnh từ sự viên mãn của Người" (Jn.1:16). "Người Con duy nhất, Ðấng ở
trong lòng Cha" (Jn.1:18) là "Người Con yêu dấu, nơi Người chúng ta
được ơn cứu chuộc... Vì trong Người tất cả những gì viên mãn của Thiên Chúa
muốn ngự trị, và qua Người Thiên Chúa hòa giải tất cả mọi sự dưới đất cũng như
trên trời, bằng việc làm hòa nơi máu của thập giá Người" (Col.1:13-14,
19-20). Chính tính cách độc nhất vô nhị này nơi Ðức Kitô đã làm cho Người có
một tầm quan trọng tuyệt đối và phổ quát, nhờ đó, dù thuộc về lịch sử, Người
vẫn là tâm điểm và mục đích của lịch sử (xem Công Ðồng Chung Vaticanô II, Hiến
Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong Thế Giới Ngày Nay Gaudium et Spes,
đoạn 2): "Ta là Alpha và là Omega, là trước hết và là sau cùng, là nguyên
thủy và là cùng đích" (Rev.22:13).
Như thế, cho
dù được phép và cần xét đến những khía cạnh khác nhau này nơi mầu nhiệm của
Chúa Kitô, chúng ta cũng không bao giờ được đánh mất tính cách hiệp nhất của
mầu nhiệm ấy. Trong tiến trình nhận thức và cảm nhận những tặng ân đa diện
-nhất là những kho tàng thiêng liêng -Thiên Chúa đã đổ xuống trên mọi người,
chúng ta không thể phân rẽ những tặng ân này khỏi Chúa Giêsu Kitô, Ðấng là tâm
điểm của dự án Thiên Chúa cứu độ. Như "nhờ việc nhập thể của mình, Con
Thiên Chúa, ở một nghĩa nào đó, đã liên kết mình với hết mọi người", cũng
thế, "chúng ta buộc phải tin rằng, Chúa Thánh Thần ban cho mọi người cơ
hội để thông phần vào Mầu Nhiệm Vượt Qua một cách nào đó chỉ có Thiên Chúa biết"
(Ibid., đoạn 22). Dự án của Thiên Chúa là ở chỗ "kết hiệp tất cả mọi sự
trong Ðức Kitô, những sự trên trời cũng như những sự dưới đất" (Eph.1:10).
Tin Tưởng vào Chúa Kitô dẫn
đến Việc Con Người được Tự Do
7-Việc khẩn thiết của hoạt động truyền giáo được bắt nguồn từ sự sống thực sự
tươi mới do Chúa Kitô mang đến, cũng như được các môn đồ của Người mặc lấy. Sự
sống mới này là một tặng ân của Thiên Chúa, và con người cần phải chấp nhận và
phát triển nó, nếu họ muốn hiện thực trọn vẹn ơn gọi của mình hợp với Chúa
Kitô. Toàn thể Tân Ước là một bản thánh ca hát lên sự sống mới này nơi những ai
tin vào Ðức Kitô và sống trong Giáo Hội của Người. Ơn cứu độ trong Chúa Kitô,
như Giáo Hội làm chứng và loan truyền, là việc Thiên Chúa thông mình ra:
"Chính tình yêu chẳng những dựng nên sự lành mà còn ban cả việc được tham
dự vào chính sự sống của Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần nữa. Vì Ngài là
Ðấng yêu thích những ước muốn trao ban chính mình" (Thông Ðiệp Dives
in Mesericordia -30/11/1980 -đoạn 7: AAS 72 -1980 -1202).
Thiên Chúa
ban cho con người sự sống mới này. "Người ta có thể phủ nhận Ðức Kitô và
mọi sự Người đã thực hiện trong lịch sử loài người được chăng? Dĩ nhiên là
người ta có thể. Con người có tự do mà. Họ có thể nói ?không? với Thiên Chúa.
Họ có thể nói ?không? với Ðức Kitô. Thế nhưng, vấn đề chính yếu vẫn còn đó: Làm
điều này có hợp lý hay chăng? Nếu hợp lý thì hợp lý ở chỗ nào?" (Bài Giảng
trong Thánh Lễ ở Krakow ngày 10-6-1979: AAS 71 -1979 -873).
Trong thế
giới tân tiến ngày nay có một khuynh hướng làm con người giảm xuống chiều kích
theo chiều ngang mà thôi. Thế nhưng, nếu không hướng đến Tuyệt Ðối Thể thì con
người sẽ ra sao? Câu trả lời cho vấn nạn này được tìm thấy nơi kinh nghiệm sống
của mọi người, song nó cũng được lịch sử nhân loại ghi nhận, bằng những cuộc
máu đổ nhân danh các ý thức hệ, hay bằng các chế độ chính trị chỉ tìm cách xây
dựng một "tân nhân loại" ở ngoài Thiên Chúa (xem Ðức Gioan XXIII,
Thông Ðiệp Mater et Magistra -15/5/1961 -đoạn IV: AAS 53 -1961
-451-453).
Ngoài ra,
Công Ðồng Chung Vaticanô II cũng đã trả lời cho những ai quan tâm đến việc bảo
toàn quyền tự do lương tâm rằng: "Con người có quyền tự do tôn giáo... tất
cả mọi người đều phải được bảo vệ cho khỏi bị cá nhân, phái nhóm hay bất cứ
quyền lực nào của con người cưỡng ép, bắt họ phải tác hành ngược lại với lương
tâm của mình về vấn đề tôn giáo, hay ngăn cản họ tác hành theo lương tâm của
mình, ở nơi riêng cũng như công cộng, làm một mình hay hợp với người khác,
trong một giới hạn thích hợp" (Tuyên Ngôn về Quyền Tự Do Tôn Giáo Dignitatis
Humanae, đoạn 2).
Việc loan
truyền Chúa Kitô và làm chứng cho Người, một khi được thực hiện theo chiều
hướng tôn trọng lương tâm con người, thì không vi phạm đến quyền tự do của con
người. Ðức tin đòi con người phải được tự do chấp nhận, thế nhưng, đồng thời
đức tin cũng cần phải được cống hiến cho họ, vì "những nhóm người này có
quyền biết đến nguồn phong phú của mầu nhiệm Chúa Kitô (x.Eph.3:8) -những phong
phú chúng ta tin rằng toàn thể nhân loại có thể tìm thấy, trong một mức độ trọn
đầy thật sự, mọi sự mà họ đang mò mẫm tìm kiếm những gì liên quan đến Thiên
Chúa, đến con người và đến định mệnh của họ, đến sự sống và sự chết, đến chân
lý... Ðó là lý do tại sao Giáo Hội giữ tinh thần truyền giáo của mình sống
động, thậm chí còn muốn làm cho nó tăng thêm trong giây phút lịch sử chúng ta
đang sống đây" (Ðức Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi -8/12/1975
-đoạn 53: AAS 68 -1976 -, 42). Thế nhưng, cũng cần phải cùng với Công Ðồng mà
nói rằng, "theo phẩm vị làm người của mình, được trang bị bởi lý trí và ý
muốn tự do, cũng như mang bên mình trách nhiệm bản thân, tất cả mọi người được
thúc đẩy bởi bản tính tự nhiên của mình, cũng như bị bó buộc bởi những đòi hởi
về luân lý, phải tìm kiếm chân lý, trên hết là chân lý về đạo giáo. Họ còn phải
tin vào chân lý một khi nhận biết chân lý, và phải điều hành cả cuộc sống của
mình theo đòi hỏi của chân lý nữa" (Tuyên Ngôn về Quyền Tự Do Tôn
Giáo Dignitatis Humanae, đoạn 2).
Giáo Hội là Dấu Hiệu và là
Phương Tiện Cứu Ðộ
9-Thừa hưởng viên đầu tiên của ơn cứu chuộc là Giáo Hội. Chúa Kitô đã chiếm
được Giáo Hội bằng giá máu của mình, và làm cho Giáo Hội thành cộng sự viên của
mình trong việc cứu độ thế giới. Thật vậy, Chúa Kitô ở trong Giáo Hội. Giáo Hội
là Hiền Thê của Người. Chính Người là Ðấng khiến cho Giáo Hội lớn lên. Người
thực hiện sứ mệnh của Người qua Giáo Hội.
Công Ðồng
thường nhắc đến vai trò của Giáo Hội trong việc cứu độ nhân loại. Nhận thức
được Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người, và ban cho họ cơ hội lãnh nhận ơn
cứu độ (x.1Tim.2:4; xem Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium,
đoạn 14-17; Sắc Lệnh về Hoạt Ðộng Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes,
đoạn 3), Giáo Hội tin rằng Thiên Chúa đã thiết lập Chúa Kitô như vị trung gian
duy nhất, và chính Giáo Hội cũng được thiết lập như một bí tích cứu độ phổ quát
(xem Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, đoạn 48; Hiến Chế
Mục Vụ về Giáo Hội trong Thế Giới Ngày Nay Gaudium et Spes, đoạn
43; Sắc Lệnh về Hoạt Ðộng Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn
7, 21). "Bởi thế, tất cả mọi người được kêu gọi tham dự vào mối hiệp nhất
công giáo này của dân Chúa, họ thuộc về mối hiệp nhất này, hay hướng về mối
hiệp nhất này bằng nhiều cách khác nhau, dù họ là tín hữu Công Giáo, hay là các
người tin vào Ðức Kitô, và sau hết dù họ là tất cả mọi người ở khắp nơi nhờ ơn
Chúa được kêu gọi đến ơn cứu độ" (Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen
Gentium, đoạn 13). Cần phải giữ lấy cả hai chân lý này, tức là chân lý mọi
người thực sự có cơ hội được cứu độ nơi Chúa Kitô, và chân lý Giáo Hội cần
thiết cho ơn cứu độ. Cả hai chân lý này giúp chúng ta hiểu được một mầu
nhiệm cứu độ duy nhất, để chúng ta có thể nhận biết tình thương của Thiên
Chúa, cũng như biết được trách nhiệm của riêng mình. Ơn cứu độ, một ơn bao giờ
cũng là do Thần Linh ban tặng, đòi con người phải cộng tác, cả trong việc cứu
lấy mình và cứu lấy cả người khác nữa. Ðó là ý muốn của Thiên Chúa, và đó là lý
do tại sao Ngài đã thiết lập Giáo Hội và làm cho Giáo Hội trở thành một phần
thuộc dự án cứu độ của Ngài. Ðối với "dân thiên sai này", Công Ðồng nói:
"Dân này đã được Chúa Kitô thiết lập như một hiệp thông sự sống, yêu
thương và chân lý; Người cũng muốn dùng dân này như dụng cụ cứu độ tất cả mọi
người, và sai đi truyền giáo khắp thế giới như ánh sáng thế gian và như muối
đất" (Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, đoạn 13).
Ơn Cứu Ðộ Nơi Chúa Kitô
được Hiến Ban cho Tất Cả Mọi Người
được Hiến Ban cho Tất Cả Mọi Người
10-Tính cách phổ quát của ơn cứu độ có nghĩa là ơn cứu độ không phải chỉ được
ban cho những ai tuyên xưng tin vào Chúa Kitô và đã gia nhập Giáo Hội. Vì được
ban cho tất cả mọi người, ơn cứu độ phải thuận lợi một cách cụ thể đối với mọi
người. Thế nhưng, thực tế cho thấy, hôm nay đây, cũng như trong quá khứ, nhiều
người không có cơ hội biết đến hay chấp nhận mạc khải Phúc Âm hoặc gia nhập
Giáo Hội. Những điều kiện về xã hội và văn hoá họ sống không cho phép họ thực
hiện được điều này, và họ thường được dưỡng dục theo các truyền thống tôn giáo
khác. Ðối với những người như vậy, mặc dù họ có liên hệ một cách mầu nhiệm nào
đó với Giáo Hội, ơn cứu độ nơi Chúa Kitô bởi ân sủng cũng không làm cho họ
chính thức trở thành phần tử của Giáo Hội, song chỉ soi sáng cho họ bằng một
đường lối hợp với tình trạng tinh thần và thể chất của họ mà thôi. Ân sủng này
là do Chúa Kitô ban cho; ân sủng ấy là hoa trái của việc Người Hiến Tế và được
Thánh Linh thông ban cho. Ân sủng ấy giúp cho mỗi người đạt đến ơn cứu độ bằng
việc tự do cộng tác của họ.
Vì lý do
này, sau khi xác nhận vai trò chính yếu của Mầu Nhiệm Vượt Qua, Công Ðồng liền
tuyên bố rằng: "Mầu Nhiệm Vượt Qua không chỉ áp dụng cho Kitô hữu thôi, mà
còn cho tất cả mọi người thiện chí được ân sủng âm thầm tác động trong lòng họ
nữa. Vì Chúa Kitô chết cho mọi người, và vì ơn gọi tối thượng của mỗi người
chúng ta phát xuất từ Thiên Chúa, do đó, ơn gọi này là một ơn gọi phổ quát, mà
chúng ta buộc phải tin rằng Chúa Thánh Thần hiến cho mọi người cơ hội được
thông phần vào Mầu Nhiệm Vượt Qua một cách nào đó chỉ một mình Thiên Chúa
biết" (Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong Thế Giới Ngày Nay Gaudium
et Spes, đoạn 22).
"Chúng Tôi không thể nào
không nói"
11-Vậy thì chúng ta phải nói làm sao về những chống đối đã được đề cập đến
liên quan tới việc truyền giáo ad gentes đây? Cho dù tôn trọng
niềm tin và cảm nhận của tất cả mọi người, chúng ta trước hết cũng phải tỏ
tường xác nhận đức tin của mình nơi Chúa Kitô, Ðấng Cứu Chuộc duy nhất của loài
người, một đức tin chúng ta đã lãnh nhận như một tặng ân bởi trời, chứ không
phải như thành quả của công lênh riêng mình. Cùng với Thánh Phaolô chúng ta hãy
nói rằng "tôi không hổ thẹn vì Phúc Âm: Phúc Âm là quyền năng của Thiên
Chúa đối với phần rỗi cho những ai tin tưởng" (Rm.1:16). Các vị tử đạo
Kitô giáo qua khắp mọi đời -kể cả thời của chúng ta đây -đã hiến mạng sống và
tiếp tục hiến mạng sống của mình để minh chứng cho đức tin này, với niềm xác
tín là, hết mọi con người đều cần đến Chúa Giêsu Kitô, Ðấng đã chiến thắng tội
lỗi cùng sự chết, và đã hòa giải loài người với Thiên Chúa.
Xác nhận lời
của mình bằng các phép lạ và bằng việc Phục Sinh từ cõi chết, Chúa Kitô công bố
Người là Con Thiên Chúa, mật thiết hiệp nhất với Cha, các môn đệ của Người cũng
nhận thức được như thế. Giáo Hội cung hiến cho loài người Phúc Âm, một sứ điệp
ngôn sứ đáp ứng các nhu cầu cùng với các ước vọng của tâm can con người, một sứ
điệp bao giờ cũng là "Tin Mừng". Giáo Hội không thể không loan truyền
việc Chúa Giêsu đã đến để tỏ cho con người thấy dung nhan của Thiên Chúa, cũng
như để lập công cứu độ cho toàn thể nhân loại, bằng Thập Tự Giá và Cuộc Phục
Sinh của Người.
Ðối với vấn
nạn "tại sao lại truyền giáo?", cùng với đức tin và kinh
nghiệm của Giáo Hội, câu giải đáp của chúng ta đó là, việc giải phóng thực sự
hệ tại việc mở lòng mình ra cho tình yêu của Chúa Kitô. Chúng ta được giải
thoát khỏi mọi xa cách và ngờ vực, khỏi mọi thứ nô lệ cho quyền lực tội lỗi và
sự chết, trong Người và chỉ trong Người mà thôi. Chúa Kitô thực sự là
"bình an của chúng ta" (Eph.2:14); "tình yêu Chúa Kitô thúc đẩy
chúng ta" (2Cor.5:14), ban cho đời sống chúng ta ý nghĩa và niềm
vui. Truyền giáo là một vấn đề của đức tin, một chứng tỏ xác thực
cho thấy niềm tin của chúng ta nơi Chúa Kitô và nơi tình Người yêu thương chúng
ta.
Hôm nay đây
có một khuynh hướng muốn kéo Kitô giáo xuống tầm mức khôn ngoan thuần túy loài
người, một ngụy khoa học về vấn đề an sinh. Trong một thế giới bị tục hoá trầm
trọng của chúng ta đây vẫn đang diễn ra một "cuộc tục hoá dần dần ơn cứu
chuộc", trong việc người ta tranh đấu cho thiện ích của con người, thế
nhưng, bị cắt xén, con người đã tụt xuống chiều kích hoàn toàn theo chiều
ngang. Thế mà, như chúng ta đã biết, Chúa Giêsu đến để mang lại ơn cứu độ chân
chính, một ơn cứu độ bao gồm trọn vẹn con người và toàn thể loài người, một ơn
cứu độ mở ra một viễn ảnh tuyệt vời, hướng tới việc làm con cái thần
linh. Tại sao lại truyền giáo? Bởi vì, chúng ta cũng như Thánh
Phaolô "được ân sủng là để rao giảng cho Dân Ngoại các kho tàng khôn lường
của Chúa Kitô" (Eph.3:8). Sự sống mới trong Chúa Kitô là một "Tin
Mừng" cho con người nam nữ ở mọi thời đại: tất cả mọi người được kêu gọi
đến sự sống mới này và được ấn định để thừa hưởng sự sống ấy. Thật vậy, tất cả
mọi người đang tìm kiếm sự sống ấy, mặc dù có những lúc tìm kiếm bằng một đường
lối lầm lẫn, và mọi người đều có quyền biết đến giá trị của tặng ân này, cũng
như được tự do tiến đến với tặng ân ấy. Giáo Hội cũng như mọi người Kitô hữu ở
trong Giáo Hội không được giữ kín hay độc quyền trên sự sống mới và trên kho
tàng họ đã lãnh nhận bởi lòng lành Thiên Chúa là để thông truyền cho toàn thể
loài người ấy.
Ðó là lý do
tại sao việc truyền giáo của Giáo Hội phát xuất chẳng những từ lệnh Chúa
truyền, mà còn từ những đòi hỏi sâu xa nơi sự sống của Thiên Chúa ở trong chúng
ta nữa. Những ai được tháp nhập vào Giáo Hội Công Giáo phải cảm nhận được đặc
ân này, và chính vì lý do đó, họ càng buộc phải làm chứng cho đức tin
cũng như cho đời sống Kitô giáo, như là một việc phục vụ anh chị em của
mình và như là một đáp ứng tương xứng với Thiên Chúa. Họ luôn luôn phải nhớ
rằng, "họ có được vị trí nổi nang không phải là do công lênh của họ, mà là
do ân sủng đặc biệt của Chúa Kitô; và nếu họ không đáp ứng ân sủng này trong tử
tưởng, lời nói và việc làm, thì chẳng những họ sẽ không được cứu độ, họ còn bị
phán xét nghiêm ngặt hơn nữa" (Công Ðồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế Tín
Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, đoạn 14).
II
VƯƠNG QUỐC CỦA THIÊN CHÚA
"Chính
'Thiên Chúa, Ðấng giầu lòng thương xót' được Chúa Giêsu Kitô tỏ cho thấy như là
một người Cha: Chính Con Ngài đã biểu lộ Ngài và tỏ Ngài ra cho chúng ta nơi
bản thân của Người" (Thông Ðiệp Dives in Mesericordia, đoạn 1:
loc. cit., 1177). Tôi đã viết điều này ở đầu Bức Thông Ðiệp Dives in
Misericordia của Tôi để trình bày cho thấy rằng Chúa Kitô là mạc khải
và là hiện thân của lòng thương Chúa Cha. Ơn cứu độ ở tại việc tin tưởng và
chấp nhận mầu nhiệm của Chúa Cha và mầu nhiệm tình yêu của Ngài, một mầu nhiệm
được biểu lộ và ban tặng một cách tự do trong Chúa Giêsu nhờ Thần Linh. Vương
Quốc của Thiên Chúa đã được hoàn tất bằng cách ấy, một Vương Quốc được sửa soạn
trong Cựu Ước, được trị đến nhờ Chúa Kitô và trong Chúa Kitô, và được Giáo Hội
loan truyền cho tất cả mọi dân tộc, một Giáo Hội hoạt động và nguyện cầu cho
Vương Quốc này được trọn vẹn và vĩnh viễn trị đến.
Cựu Ước
chứng thực là Thiên Chúa đã tuyển chọn và thành hình một dân tộc cho Ngài, để
mạc khải và thực thi dự án yêu thương của Ngài. Thế nhưng, đồng thời Thiên Chúa
cũng là Ðấng Hoá Công và là Cha của tất cả mọi dân tộc; Ngài chăm lo và cung
ứng cho họ, trải rộng phúc lành của Ngài cho tất cả mọi dân nước (x. Gen 12:3);
Ngài đã thiết lập giao ước với họ tất cả (x.Gen 9:1-17). Dân Yến Duyên cảm nhận
được một vị Thiên Chúa cá thể và cứu độ (x. Dt 4:37, 7:6-8; Is 43:1-7), và đã
trở nên nhân chứng và phát ngôn viên của Ngài cho các dân tộc. Trong giòng lịch
sử của mình, dân Yến Duyên đã nhận thức rằng, việc họ được tuyển chọn có một ý
nghĩa phổ quát (chẳng hạn xem Is 2:2-5, 25:6-8, 60:1-6; Jer 3:17, 16:19).
Chúa Kitô hiện thực Vương Quốc
Thiên Chúa
13-Chúa Giêsu Nazarét đã làm cho dự án của Thiên Chúa nên trọn. Sau khi nhận
được Thánh Linh lúc chịu Phép Rửa, Chúa Giêsu đã làm sáng tỏ ơn gọi thiên sai
của mình: Người đi khắp Galilêa "rao giảng Phúc Âm của Thiên Chúa mà nói:
?Thời điểm đã trọn, Vương Quốc của Thiên Chúa đã đến; hãy ăn năn thống hối và
hãy tin vào Phúc Âm" (Mk 1:14-15; x. Mt 4:17; Lk 4:43). Việc loan báo và
thiết lập Vương Quốc của Thiên Chúa là mục tiêu đối với sứ mệnh của Người:
"Tôi được sai đến là vì mục đích này" (Lk 4:43). Nhưng đó chưa phải
là tất cả. Chúa Giêsu còn là chính "Tin Mừng" nữa, như Người tuyên bố
ngay khi mở màn cho sứ vụ của Người ở hội đường Nazarét, lúc Người áp dụng vào
mình những lời của tiên tri Isaia về Ðấng Ðược Xức Dầu do Thần Linh Chúa sai đi
(x. Lk 4:14-21). Vì "Tin Mừng" là Chúa Kitô, nên giữa sứ điệp và sứ
giả, giữa lời nói, việc làm và con người chỉ là một. Quyền năng của Người, cái
bí mật hiệu năng nơi các hoạt động của Người, có được là do Người hoàn toàn
đống nhất với sứ điệp Người loan báo: Người loan báo "Tin Mừng" không
phải bằng những gì Người nói hay làm, mà ở chỗ Người là.
Tác vụ của
Chúa Giêsu đã được trình thuật theo diễn tiến của những cuộc Người hành trình
tại quê hương xứ sở của Người. Trước Phục Sinh, sứ vụ của Người nhắm vào dân
Yến-Duyên. Tuy nhiên, Chúa Giêsu cũng cho thấy một yếu tố mới hết sức quan
trọng. Thực tại cánh chung không tiêu biểu cho một "tận thế" xa vời,
mà đã sát cận và hoạt động giữa chúng ta rồi. Vương Quốc của Thiên Chúa đã đến
(x. Mk 1:15); việc vương quốc này trị đến đã được nguyện xin (x. Mt 6:10); đức
tin có thể thoáng thấy được rằng vương quốc ấy đã hoạt động nơi các dấu hiệu
như phép lạ (x. Mt 11:4-5) và trừ quỉ (x. Mt 12:25-28), trong việc chọn 12 Vị
(x. Mk 3:13-19), cũng như trong việc loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó (x.
Lk 4:18). Việc Chúa Giêsu gặp gỡ Dân Ngoại cho thấy rõ ràng là vấn đề được vào
Vương Quốc Thiên Chúa là do đức tin và do việc cải thiện đời sống (x. Mk 1:15),
chứ không phải chỉ căn cứ vào chủng tộc.
Vương Quốc
được Chúa Giêsu khai mở là Vương Quốc của Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đã mạc
khải vị Thiên Chúa này là ai, Ðấng mà Người thân thưa bằng một lời thân tình
"Abba", Cha (x. Mk 14:36). Thiên Chúa, như được mạc khải đặc biệt qua
các dụ ngôn (x. Lk 15:3-32; Mt 20:1-16), nhậy cảm trước những nhu cầu và khổ
đau của mọi người: Người là một Người Cha đầy yêu thương và thương cảm, Ðấng
ban ơn tha thứ và tự ý ban phát các ơn con người cầu xin cùng Ngài.
Thánh Gioan
nói với chúng ta rằng "Thiên Chúa là tình yêu" (1Jn 4:8,16). Bởi thế,
mọi người đều được mời gọi "hối cải" và "tin tưởng" vào
tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa. Vương Quốc của Thiên Chúa sẽ phát triển ở chỗ
mọi người biết trở về cùng Thiên Chúa trong nguyện cầu thân thiết với Ngài như
một Người Cha (x. Lk 11:2; Mt 23:9) và nỗ lực để làm theo ý của Ngài (x. Mt
7:21).
Những Ðặc Tính và Ðòi Hỏi của
Vương Quốc Thiên Chúa
14-Chúa Giêsu dần dần mạc khải cho thấy những đặc tính và đòi hỏi của Vương
Quốc Thiên Chúa, bằng lời Người nói, việc Người làm và bản thân của Người.
Vương Quốc
của Thiên Chúa nhắm đến toàn thể nhân loại, và tất cả mọi dân tộc đều được kêu
gọi trở nên công dân của vương quốc này. Ðể nhấn mạnh đến sự kiện ấy, Chúa
Giêsu đã đặc biệt đến gần những ai sống bên lề xã hội, và tỏ ra ưu ái loan
truyền Tin Mừng cho họ. Khi bắt đầu mở màn cho tác vụ của mình, Người đã công
bố rằng, Người được "xức dầu... để rao giảng tin mừng cho người nghèo
khó" (Lk 4:18). Ðối với tất cả những ai là nạn nhân bị ruồng bỏ và khinh
miệt, Chúa Giêsu tuyên bố: "Phúc cho người nghèo các con" (Lk 6:20).
Hơn thế nữa, Người còn cho những người ấy cảm nghiệm thấy họ được giải phóng
ngay lúc bấy giờ, bằng việc Người ở gần họ, đến ăn uống tại nhà của họ (x Lk
5:30, 15:2), đối xử với họ ngang vai với mình và như bạn hữu của mình (x. Lk
7:34), khiến cho họ cảm thấy họ được Thiên Chúa yêu thương, nhờ đó, Người tỏ
cho họ thấy việc Thiên Chúa dịu dàng chăm sóc thành phần nghèo khó và tội nhân
(x Lk 15:1-32).
Việc giải
phóng và ơn cứu độ từ Vương Quốc của Thiên Chúa đến với con người theo cả chiều
kích thể lý cũng như tâm linh. Có hai cử chỉ nói lên đặc tính nơi sứ vụ của
Chúa Giêsu, đó là chữa lành và tha thứ. Nhiều vụ chữa lành của Chúa Giêsu tỏ
cho thấy rõ ràng lòng Người hết sức thương cảm đối với tình trạng thảm não của
con người, nhưng chúng cũng nói lên rằng, nơi Vương Quốc của Thiên Chúa sẽ
không còn bệnh tật hay khổ đau, và sứ vụ của Người, ngay từ ban đầu, là giải
phóng con người khỏi những sự dữ ấy. Ðối với Chúa Giêsu, các vụ chữa lành còn
là dấu hiệu cứu độ về tâm linh nữa, tức là dấu hiệu của việc giải phóng khỏi
tội lỗi. Bằng việc chữa lành, Người mời gọi con người tin tưởng, hoán cải và
xin ơn tha thứ (x. Lk 5:24). Một khi đã tin tưởng, thì việc chữa lành lại là
một thôi thúc tiến xa hơn nữa: nó dẫn đến ơn cứu độ (x. Lk 18:42-43). Những vụ
giải thoát cho khỏi bị quỉ ám -là sự dữ trên hết và là biểu hiệu cho tội lỗi
cũng như cho việc phản chống Thiên Chúa -là những dấu hiệu thật sự cho thấy
"Vương Quốc của Thiên Chúa đã đến với các người" (Mt 12:28).
15-Vương Quốc của Thiên Chúa nhắm đến việc biến đổi các mối liên hệ loài
người; Vương Quốc này dần dần phát triển ở chỗ con người từ từ biết yêu thương,
tha thứ và phục vụ nhau. Chúa Giêsu tóm tắt cả Lề Luật bằng việc tập trung vào
giới răn yêu thương (x. Mt 22:34-40; Lk 10:25-28): "Các con hãy yêu thương
nhau như Thày đã yêu thương các con" (Jn 13:34, x.15:12). Tình Chúa Giêsu
yêu thương nhân loại được bộc lộ đến tuyệt đỉnh ở chỗ Người hiến mạng sống mình
vì nhân loại (x. Jn 15:13), một tình yêu cho thấy Chúa Cha yêu thương thế gian
(x. Jn 3:16). Bởi thế, bản chất của Vương Quốc Thiên Chúa là một bản chất hiệp
thông tất cả loài người -hiệp thông với nhau cũng như với Thiên Chúa.
Vương Quốc
của Thiên Chúa là một mối bận tâm của mọi người: cá nhân, xã hội và thế giới.
Hoạt động cho Vương Quốc này tức là nhìn nhận và đề cao hoạt động của Thiên
Chúa đang hiện diện trong lịch sử loài người và biến đổi lịch sử loài người.
Xây dựng Vương Quốc này tức là hoạt động để giải phóng con người khỏi tất cả mọi
hình thức của sự dữ. Tóm lại, Vương Quốc của Thiên Chúa là trọn vẹn dự án cứu
độ của Thiên Chúa được biểu lộ và hiện thực.
Nơi Chúa Kitô Vương Quốc Thiên
Chúa
được Hoàn Tất và Loan Báo
được Hoàn Tất và Loan Báo
16-Bằng việc phục sinh Chúa Giêsu từ trong kẻ chết, Thiên Chúa đã chiến thắng
sự chết, và nơi Chúa Giêsu, Ngài đã vĩnh viễn mở màn cho Vương Quốc của Ngài.
Trong cuộc sống trần gian của mình, Chúa Giêsu là Vị Tiên Tri của Vương Quốc
này; sau cuộc Khổ Nạn, Phục Sinh và Thăng Thiên, Người thông dự vào quyền lực
của Thiên Chúa cũng như vào quyền thống trị thế gian với Thiên Chúa (x. Mt
28:18; Acts 2:36; Eph 1:18-21). Cuộc Phục Sinh làm cho sứ điệp của Chúa Kitô,
hành động của Người, cũng như toàn thể sứ vụ của Người có một chiều hướng phổ
quát đại đồng. Các môn đệ của Người nhận ra rằng, Vương Quốc của Thiên Chúa đã
hiện diện nơi con người Chúa Giêsu, và đang từ từ được thiết lập trong con
người cũng như trong thế giới qua mối giây liên kết mầu nhiệm với Người.
Thật vậy,
sau Cuộc Phục Sinh, các môn đệ của Chúa Kitô đã rao giảng Vương Quốc này bằng
việc loan truyền Chúa Giêsu Tử Giá và Phục Sinh từ trong cõi chết. Ở Samaria,
Thánh Philiphê "đã rao giảng tin mừng về Vương Quốc của Thiên Chúa và danh
của Chúa Giêsu Kitô" (Acts 8:12). Ở Rôma, chúng ta thấy Thánh Phaolô
"rao giảng Vương Quốc của Thiên Chúa và dạy dỗ về Chúa Giêsu Kitô"
(Acts 28:31). Các Kitô hữu tiên khởi cũng loan báo về "Vương Quốc của Chúa
Kitô và của Thiên Chúa" (Eph 5:5; x. Rev 11:15, 12:10), hay về "Vương
Quốc của Ðức Giêsu Kitô là Chúa và là Ðấng Cứu Ðộ của chúng ta" (1Pt
1:11). Việc giảng dạy của Giáo Hội sơ khai tập trung vào việc loan truyền về
Chúa Giêsu Kitô là Ðấng được đồng hoá với Vương Quốc Thiên Chúa. Bởi thế cho
nên cần phải liên kết việc loan báo Vương Quốc của Thiên Chúa (nội
dung của "lời rao giảng tiên khởi" của Chúa Giêsu) với việc
loan báo biến cố về Chúa Kito?("lời rao giảng tiên khởi" của các
Tông Ðồ) với nhau. Hai việc loan báo này bổ xung cho nhau; làm cho nhau nên
sáng tỏ.
Vương Quốc Thiên Chúa
Liên Hệ với Chúa Kitô và Giáo Hội
Liên Hệ với Chúa Kitô và Giáo Hội
17-Ngày nay người ta hay nói đến Vương Quốc này, nhưng không luôn luôn theo
chiều hướng thiên về việc nghĩ đến Giáo Hội. Thật vậy, có những ý nghĩ về ơn
cứu độ và về việc truyền giáo, có thể được gọi là "đặt trọng tâm vào nhân
loại học", đã làm giảm mất ý nghĩa của từ ngữ, vì những ý nghĩ ấy chú
trọng đến những nhu cầu trần thế. Theo quan điểm này, Vương Quốc của Thiên Chúa
có khuynh hướng trở thành một điều gì đó hoàn toàn nhân bản và tục hoá; cái có
giá trị chỉ là những dự án và việc đấu tranh giải phóng về phương diện kinh tế
xã hội, chính trị và ngay cả văn hoá trong chiều hướng dính liền với siêu việt
tính. Cả ở mức độ này đi nữa, người ta cũng thấy được rằng có những giá trị
được đề cao, tuy nhiên, quan niệm ấy vẫn nằm trong phạm trù của một vương quốc
nhân loại, thiếu mất các chiều kích chuyên chính và sâu xa của nó. Một quan
niệm như vậy sẽ dễ dàng biến thành một quan niệm thiên về ý thức hệ thuần túy
trong lãnh vực tiến bộ trần thế. Trong khi đó, Vương Quốc của Thiên Chúa lại
"không thuộc về thế gian này... không bởi thế gian này" (Jn 18:36).
Cũng có
những quan niệm cố ý nhấn mạnh đến Vương Quốc này và cho thấy đó là những quan
niệm lấy "Vương Quốc của Thiên Chúa làm chính". Họ chú trọng tới hình
ảnh của một Giáo Hội không quan tâm gì đến bản thân mình, mà chỉ hoàn toàn lo
việc làm chứng và phụng sự Vương Quốc này. Ðó là một "Giáo Hội sống cho
người khác", giống như Chúa Kitô là "con người sống cho kẻ khác"
vậy. Công việc của Giáo Hội, theo họ cho thấy, như thể đã tiến theo hai chiều
hướng: một chiều hướng đề cao những giá trị về Vương Quốc của Thiên Chúa",
như hòa bình, công lý, tự do, tình huynh đệ v.v., còn chiều hướng kia là việc
phát động vấn đề đối thoại giữa các dân tộc, văn hoá và tôn giáo, để nhờ việc
làm cho nhau nên phong phú này, những giá trị ấy có thể giúp vào việc canh tân
thế giới và giúp cho thế giới tiến đến gần Vương Quốc của Thiên Chúa hơn nữa.
Song song
với những khía cạnh tích cực, những quan niệm này cũng thường để lộ ra cho thấy
cả những khía cạnh tiêu cực nữa. Khía cạnh tiêu cực thứ nhất, đó là việc họ
không nói gì đến Chúa Kitô hết: Vương Quốc họ nói đến được căn cứ "chủ yếu
theo thần học", bởi vì, theo họ, Ðức Kitô là Ðấng không thể nào hiểu nổi
đối với những người thiếu đức tin Kitô giáo, trong khi đó, các dân tộc khác,
các nền văn hoá khác và các tôn giáo khác lại có thể gặp nhau nơi cùng một thực
tại thần linh duy nhất, được gọi bằng một danh xưng nào đó. Cùng một lý do ấy,
họ nhấn thật mạnh đến mầu nhiệm tạo dựng, một mầu nhiệm được phản ảnh nơi tính
cách đa diện của các văn hoá và niềm tin, trong khi đó, họ không đếm xỉa gì tới
mầu nhiệm cứu chuộc cả. Ngoài ra, theo họ hiểu, nơi Vương Quốc của Thiên Chúa,
vai trò của Giáo Hội không có là bao nhiêu, hay chẳng có giá trị gì mấy so với
"khuynh hướng lấy giáo hội làm chính" xưa kia, đối với họ, chính Giáo
Hội chỉ là một dấu chỉ, mà đã là một dấu chỉ thì không thể nào tránh khỏi tính
cách mập mờ.
18-Ðó không phải là Vương Quốc của Thiên Chúa như Mạc Khải đã tỏ cho chúng ta
biết. Vương Quốc này không thể nào tách lìa với Chúa Kitô hay với Giáo Hội.
Như đã nói
tới, Chúa Kitô chẳng những loan báo về Vương Quốc này, mà chính Vương Quốc này
còn được thể hiện và nên trọn nơi Người nữa. Ðiều này xẩy ra chẳng những qua
lời Người nói và việc Người làm: "Trên hết, ... Vương Quốc này được biểu
lộ nơi chính con người của Ðức Kitô, Con Thiên Chúa cũng là Con Người, Ðấng đến
?để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người? (Mk 10:45)"
(Công Ðồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium,
đoạn 5). Vương Quốc của Thiên Chúa không phải là một quan niệm, một tín lý hay
là một hoạch định muốn cắt nghĩa sao cũng được, mà trước hết là một con
người, dưới dung nhan và danh xưng Giêsu Nazarét, hình ảnh của Thiên Chúa
vô hình (Công Ðồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế Mạc Vụ về Giáo Hội trong Thế
Giới Ngày Nay, Gaudium et Spes, đoạn 22). Nếu Vương Quốc này tách
khỏi Chúa Giêsu sẽ không còn là Vương Quốc của Thiên Chúa như Người mạc khải
nữa. Hậu quả sẽ là việc làm mất đi ý nghĩa về Vương Quốc này, một vương quốc có
thể bị biến đổi thành mục tiêu thuần nhân loại hay mục tiêu theo ý thức hệ, và
hậu quả cũng còn là hình ảnh méo mó về căn tính của Chúa Kitô, Ðấng không còn
là Vị Chúa một ngày kia sẽ làm chủ tất cả mọi sự nữa (x. 1Cor 15:27).
Cũng thế,
người ta không được phép tách Vương Quốc Thiên Chúa khỏi Giáo Hội. Ðúng thế,
Giáo Hội không phải là cùng đích của chính mình, vì Giáo Hội phải hướng về
Vương Quốc của Thiên Chúa mà Giáo Hội là hạt mầm, là dấu chỉ và là dụng cụ. Tuy
nhiên, dù biệt lập khỏi Chúa Kitô và Vương Quốc này, Giáo Hội cũng phải liên
kết bất khả phân ly với cả Chúa Kitô và Vương Quốc Thiên Chúa. Chúa Kitô đã ban
cho Giáo Hội là Thân Thể của Người tất cả các ơn ích và phương tiện cứu độ.
Chúa Thánh Thần ngự trong Giáo Hội, làm cho Giáo Hội sống động bằng các tặng ân
và đặc sủng của Ngài, thánh hoá, dẫn dắt và không ngừng canh tân Giáo Hội (Công
Ðồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium,
đoạn 4). Bởi thế mới có một mối liên hệ duy nhất và đặc biệt, trong đó bao gồm
cả tác động của Chúa Kitô và của Thần Linh thực hiện ở bên ngoài giới hạn hữu
hình của Giáo Hội, mối liên hệ làm cho Giáo Hội đóng một vai trò chuyên biệt và
cần thiết; vì mối liên hệ đặc biệt với Vương Quốc của Thiên Chúa cũng như với
Vương Quốc của Chúa Kitô này mà Giáo Hội có "sứ mệnh loan truyền và khai
mở Vương Quốc của Thiên Chúa cũng như Vương Quốc của Chúa Kitô nơi mọi dân
nước" (ibid. 5).
19-Thực tại của Vương Quốc này phải được hiểu theo quan điểm toàn diện ấy.
Vương Quốc của Thiên Chúa chắn chắn cần phải đề cao các giá trị nhân bản cũng
như những giá trị đáng gọi là "của phúc âm", vì chúng gắn liền với
"Tin Mừng". Thế nhưng, việc đề cao hằng được Giáo Hội ôm ấp này không
được tách khỏi hay phản lại với những công việc khác, như việc loan báo Chúa
Kitô và Phúc Âm của Người, cũng như việc thiết lập và xây dựng những cộng đồng
là những gì làm hiện thực và linh hoạt hình ảnh sống động của Vương Quốc ấy.
Người ta bởi thế không nên sợ bị rơi vào một hình thức "lấy giáo hội làm
chính". Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI, vị đã xác nhận có "một mối liên kết
sâu xa giữa Chúa Kitô, Giáo Hội và việc truyền bá phúc âm hoá" (Tông
Huấn Evangelii Nuntiandi, đoạn 16: loc. cit., 15), cũng là vị nói
rằng, Giáo Hội "không lấy chính mình làm cùng đích, mà chỉ hết lòng lo sao
cho mình được hoàn toàn thuộc về Chúa Kitô, ở trong Chúa Kitô và sống cho Chúa
Kitô, cũng như hoàn toàn thuộc về con người, ở giữa con người và sống cho con
người" (Diễn Từ khai mạc Khoá Ba Công Ðồng Chung Vaticanô II
ngày 14-9-1964: AAS 56 -1964 -810).
Giáo Hội Phục Vụ Vương Quốc
Thiên Chúa
20-Giáo Hội phục vụ Vương Quốc của Thiên Chúa một cách hiệu nghiệm và cụ thể.
Ðiều này được thấy đặc biệt nơi việc Giáo Hội giảng dạy, đó là lời mời gọi cải
hối. Việc rao giảng là việc đầu tiên và căn bản Giáo Hội làm để Vương Quốc này
được trị đến nơi cá nhân cũng như nơi xã hội loài người. Ơn cứu độ cánh chung
được bắt đầu ngay từ bây giờ ở nơi sự sống mới trong Chúa Kitô: "Những ai
tin tưởng vào Người, những ai tin vào danh Người thì Người ban cho họ khả năng
trở nên con cái của Thiên Chúa" (Jn 1:12).
Giáo Hội bởi
thế mới phục vụ Vương Quốc của Thiên Chúa, bằng việc thiết lập các cộng đồng và
đặt nền móng cho các Giáo Hội tân lập riêng, cũng như bằng việc hướng dẫn các
Giáo Hội mới này tới một đức tin và đức ái trưởng thành hướng đến người khác,
trong việc phục vụ cá nhân cùng xã hội, và trong việc hiểu biết cùng tôn trọng
những cơ cấu tổ chức của loài người.
Giáo Hội
phục vụ Vương Quốc của Thiên Chúa bằng việc lan truyền khắp thế giới "các
giá trị Phúc Âm", là biểu hiện Vương Quốc này và là những gì giúp cho con
người chấp nhận dự án của Thiên Chúa. Thực tại sơ khởi về Vương Quốc Thiên Chúa
thật sự cũng có thể được thấy bên ngoài giới hạn của Giáo Hội, ở các dân tộc
khắp nơi, qua việc họ sống "các giá trị Phúc Âm" và cởi mở trước hoạt
động của Thần Linh, Ðấng thổi lúc nào và ở đâu tùy ý của Ngài (x. Jn 3:8). Thế
nhưng, phải nói ngay là, chiều kích tạm thời này của Vương Quốc Thiên Chúa vẫn
bất toàn cho tới khi được liên hệ với Vương Quốc của Chúa Kitô hiện diện nơi
Giáo Hội và vươn tới tầm mức viên trọn cánh chung (xem ÐTC Phaolô VI, Tông
Huấn Evangelii Nuntandi, đoạn 34: loc. cit., 28).
Nhiều chiều
kích của Vương Quốc Thiên Chúa (xem Ủy Ban Thần Học Thế Giới, Các Ðề Tài Giáo
Hội Học Chọn Lọc vào Dịp Kỷ Niệm 20 Năm Kết Thúc Công Ðồng Chung Vaticanô II,
ngày 7-12-1985, đoạn 10: "The Eschatological Character of the Church:
Kingdom and Church") cũng không làm suy yếu các nền tảng và mục đích của
hoạt động truyền giáo, trái lại, còn làm kiên cường và nới rộng các hoạt động
này nữa. Giáo Hội là một bí tích cứu độ của toàn thể nhân loại, và hoạt động
của Giáo Hội không chỉ hạn hẹp nơi thành phần chấp nhận sứ điệp của Giáo Hội mà
thôi. Giáo Hội là một năng động trong việc nhân loại hành trình tiến về chung
cuộc của Vương Quốc Thiên Chúa, là dấu chỉ và là cổ động viên cho các giá trị
Phúc Âm (Công Ðồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế Mạc Vụ về Giáo Hội trong Thế
Giới Ngày Nay, Gaudium et Spes, đoạn 39). Giáo Hội đóng góp vào
việc loài người lữ hành trở về cùng dự án của Thiên Chúa qua chứng từ của mình,
cũng như qua các hoạt động, như đối thoại, đề cao nhân bản, dấn thân cho công
lý và hòa bình, cho việc giáo dục con người và việc chăm sóc bệnh nhân, cho
việc trợ giúp người nghèo và trẻ em. Tuy nhiên, khi thực hiện những hoạt động
này, Giáo Hội bao giờ cũng đặt ưu tiên cho những thực tại siêu việt và linh
thiêng là những cơ bản của việc cứu độ cánh chung.
Sau hết,
Giáo Hội phục vụ Vương Quốc của Thiên Chúa bằng việc chuyển cầu của mình, vì
Vương Quốc này, tự bản chất, là tặng ân và là việc làm của Thiên Chúa, như các
dụ ngôn trong Phúc Âm cũng như lời kinh Chúa Giêsu dạy nhắc nhở chúng ta. Chúng
ta phải cầu xin cho được Vương Quốc này, đón nhận Vương Quốc này và làm cho
Vương Quốc này lớn lên trong chúng ta; thế nhưng, chúng ta cũng phải cùng nhau
hoạt động để Vương Quốc này được đón nhận và phát triển nơi tất cả mọi dân
nước, cho đến lúc Chúa Kitô "trao về cho Thiên Chúa là Cha Vương Quốc
này" để "Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự" (x. 1Cor 15:24,28).
IV
CHÂN TRỜI
BAO RỘNG CỦA VIỆC TRUYỀN GIÁO AD GENTES
Chúa Giêsu
đã sai các Tông Ðồ của Người đến với mọi người, mọi dân tộc và hết mọi nơi trên
mặt đất này. Qua các Vị Tông Ðồ, Giáo Hội đã lãnh nhận một sứ vụ phổ quát -một
sứ vụ vượt biên cương bờ cõi -một sứ vụ bao gồm việc thông truyền nguyên vẹn ơn
cứu độ đúng như sự sống viên mãn được Chúa Kitô ban cho (x. Jn 10:10). Giáo Hội
đã được "Chúa Kitô sai đi để tỏ ra cũng như để thông truyền tình yêu của
Thiên Chúa cho tất cả mọi con người và mọi quốc gia" (Công Ðồng Chung Vaticanô
II, Sắc Lệnh về Hoạt Ðồng Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn
10).
Sứ vụ này là
một sứ vụ duy nhất và bất phân chia, chỉ có một nguồn gốc và một mục đích duy
nhất; thế nhưng, sứ vụ này cũng bao gồm những công việc khác nhau và các thứ
hoạt động khác nhau. Trước hết, có một hoạt động truyền giáo chúng ta gọi
là truyền giáo ad gentes (cho các dân tộc), dựa theo tên gọi
mở đầu cho Sắc Lệnh của Công Ðồng Chung Vaticanô II về vấn đề này. Ðây là một
trong những hoạt động căn bản của Giáo Hội: nó là một hoạt động thiết yếu và
không bao giờ chấm dứt. Thật vậy, Giáo Hội "không thể rút lui khỏi sứ
vụ vĩnh viễn của mình trong việc mang Phúc Âm đến cho các đám đông dân
chúng -cho cả hằng triệu triệu người nam nữ -thành phần chưa biết đến Chúa Kitô
là Ðấng Cứu Chuộc của nhân loại. Ðây là một hoạt động truyền giáo được Chúa
Giêsu đã đặc biệt ủy thác và còn ủy thác mỗi ngày cho Giáo Hội của Người"
(Tông Huấn Người Tín Hữu Giáo Dân Christifideles Laici -30/12/1988
-đoạn 35: AAS 81 -1989 -457).
Một Hình Ảnh Ðạo Nghĩa
Phức Tạp và Ðổi Thay hơn bao giờ hết
Phức Tạp và Ðổi Thay hơn bao giờ hết
32-Hôm nay đây, chúng ta đang đối diện với một tình trạng đạo nghĩa hết sức
khác biệt và đổi thay. Các dân tộc đang chuyển biến; các thực tại về xã hội và
tôn giáo, trước kia rõ ràng đâu vào đó, ngày nay lại càng trở nên phức tạp hơn.
Chúng ta chỉ cần nghĩ đến một vài hiện tượng, như việc thành thị hoá, việc ồ ạt
di dân, làn sóng những người tị nạn, tình trạng bại hoại kitô giáo ở những xứ
sở theo truyền thống Kitô giáo cổ kính, việc Phúc Âm và các giá trị của Phúc Âm
càng gây tác dụng chưa từng thấy tại các xứ sở không theo Kitô giáo, cũng như
tình trạng lan tràn nhanh chóng các việc sùng bái thần tượng thiên sai và các
giáo phái. Tình trạng đột biến về đạo nghĩa và xã hội đã trở thành một tình
trạng khó khăn trong việc áp dụng thực hành một số những chuyên biệt và những
thứ loại của giáo hội đã quen thuộc đối với chúng ta. Ngay cả trước Công Ðồng
Chung Vaticanô II, có một số thành phố và xứ sở Kitô giáo đã trở thành những
"địa sở truyền giáo"; thế mà tình trạng rõ ràng vẫn cho thấy chưa cải
tiến gì qua những năm tháng từ hồi đó đến nay.
Trong khi
đó, công việc truyền giáo lại gặt hái được nhiều kết quả khắp thế giới, để có
những Giáo Hội được thiết lập tốt đẹp như hiện nay, đôi khi còn tốt lành và
trưởng thành đến nỗi có thể cung ứng cho nhu cầu của riêng cộng đồng mình, mà
thậm chí còn gửi cả người đi truyền bá phúc âm hoá tại các Giáo Hội khác và địa
sở khác nữa. Sự kiện này trái với một số miền theo Kitô giáo truyền thống đang
cần phải được tái truyền bá phúc âm hoá. Bởi thế mới có một số người đặt vấn
nạn là có nên tiếp tục nói đến hoạt động truyền giáo đặc biệt hay
đến những miền "truyền giáo" đặc biệt, thay vào đó chúng ta nên nói
đến một trường hợp truyền giáo duy nhất, với một việc truyền giáo
duy nhất, giống như ở mọi nơi vậy. Cái khó khăn của vấn đề liên hệ đến thực tại
phức tạp và đổi thay này, với việc cần phải truyền bá phúc âm hoá, rõ ràng là ở
chỗ "ngôn ngữ truyền giáo". Chẳng hạn như có một sự ngần ngại nào đó
trong việc sử dụng các từ ngữ "những việc truyền giáo" và "những
nhà truyền giáo", những chữ được coi như đã lỗi thời và mang theo những ý
nghĩa tiêu cực về mặt lịch sử. Người ta thích dùng danh từ "truyền
giáo" ở số ít và tĩnh từ "truyền giáo" để diễn tả tất cả mọi
hoạt động truyền giáo của Giáo Hội.
Cái trăn trở
này cho thấy có một sự thay đổi thực sự, một sự đổi thay có những khía cạnh
tích cực nào đó. Cái được gọi là trở về hay "về nguồn" của các việc
truyền giáo trong sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội, việc đem truyền giáo học vào
giáo hội học, và việc hội nhập cả hai lãnh vực này vào dự án cứu độ của Thiên
Chúa Ba Ngôi, đã tạo nên cho chính hoạt động truyền giáo một đà tiến mới, một
hoạt động đối với Giáo Hội không được coi như là một việc bên ngoài lề, mà là ở
ngay cốt lõi của đời sống Giáo Hội, như là một công việc trọng yếu của toàn thể
Dân Chúa. Tuy nhiên, cần phải để ý tránh cái nguy hiểm của việc đặt những
trường hợp khác nhau ở cùng một mức độ, cũng như của việc làm suy giảm, thậm
chí loại trừ, việc truyền giáo và các nhà truyền giáo ad gentes của
Giáo Hội. Nói rằng toàn thể Giáo Hội là thừa sai thì không phải loại bỏ đi việc
hiện hữu của việc chuyên biệt truyền giáo ad gentes, mà chỉ có ý
nói rằng, tất cả mọi người Công Giáo phải là những nhà truyền giáo, ở chỗ,
chẳng những không loại trừ mà thực sự còn đòi buộc phải có những con người nhận
lãnh một ơn gọi đặc biệt để là "những nhà truyền giáo cả một đời ad
gentes".
Việc Truyền Giáo ad
gentes
vẫn giữ nguyên Giá Trị của mình
vẫn giữ nguyên Giá Trị của mình
33-Vấn đề về tính cách đa diện nơi các hoạt động trong cùng một sứ
mệnh truyền giáo duy nhất của Giáo Hội không thuộc về bản chất của sứ
mệnh truyền giáo, mà là do bởi tính cách khác nhau nơi hoàn cảnh thực hiện việc
truyền giáo (xem Công Ðồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt Ðộng Truyền Giáo
của Giáo HộiAd Gentes, đoạn 6). Nhìn vào thế giới hôm nay, bằng quan
điểm của việc truyền bá phúc âm hoá, chúng ta có thể phân biệt ba
trường hợp.
Trường hợp
thứ nhất được hoạt động truyền giáo của Giáo Hội nhắm tới, đó là các dân tộc,
các nhóm người và các tương quan văn hoá xã hội chưa biết đến Chúa Kitô cùng
Phúc Âm của Người, hay còn thiếu những cộng đồng Kitô hữu đủ trưởng thành để có
thể hiện thực đức tin trong môi trường sống của họ, cũng như để loan báo đức
tin của họ cho những nhóm người khác. Ðây là việc truyền giáo ad gentestheo
đúng nghĩa của từ ngữ (xem ibid).
Trường hợp
thứ hai là những cộng đồng Kitô hữu được thiết lập đầy đủ và vững chắc. Họ hăng
say với đức tin và sống đời Kitô hữu của mình. Họ làm chứng cho Phúc Âm nơi
hoàn cảnh sống của mình và cảm thấy cần phải dấn thân cho việc truyền giáo
chung. Giáo Hội thực hiện hoạt động và việc mục vụ chăm sóc tín hữu của mình
nơi những cộng đoàn này.
Trường hợp
thứ ba là trường hợp ở giữa, đặc biệt là trường hợp ở nơi những xứ sở có gốc
gác Kitô giáo lâu đời, đôi khi ở cả những Giáo Hội không lâu đời như vậy, là
những nơi hết thảy các nhóm người lãnh nhận phép rửa đã mất đi cảm quan sống
động của đức tin, thậm chí không còn coi mình là phần tử của Giáo Hội nữa, và
sống một cuộc đời xa biệt hẳn với Chúa Kitô cũng như với Phúc Âm của Người.
Ðiều cần phải làm trong trường hợp này đó là "việc tân truyền bá phúc âm
hoá" hay "việc tái truyền bá phúc âm hoá" vậy.
34-Hoạt động truyền giáo xứng danh, tức là việc truyền giáo ad gentes (cho
các dân tộc), nhắm đến "các dân tộc hay các nhóm người chưa tin vào Chúa
Kitô", "những người xa cách Chúa Kitô", những người Giáo Hội
"chưa đâm rễ" (xem ÐTC Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii
Nuntiandi, đoạn 18-20: loc. cit., 17-19). Việc này khác hẳn với các hoạt
động khác của giáo hội, vì nó nhắm đến các nhóm người và các môi trường ngoài
Kitô giáo là những gì chưa có hay chưa đủ việc giảng dạy Phúc Âm cũng như việc
hiện diện của Giáo Hội. Bởi thế, nó mang đặc tính như là một việc loan báo Chúa
Kitô cùng với Phúc Âm của Người, việc thiết lập Giáo Hội địa phương và là việc
cổ võ các giá trị thuộc về Vương Quốc của Thiên Chúa. Bản chất chuyên biệt của
việc truyền giáo ad gentes này là ở chỗ nó nhắm đến
"những người không phải Kitô hữu". Bởi thế, cần phải làm sao để bảo
đảm được rằng, "việc truyền giáo đã được Chúa Giêsu ủy thác và còn ủy thác
từng ngày cho Giáo Hội của Người" (Tông Huấn Người Tín Hữu Giáo Dân Christifideles
Laici, đoạn 35: loc. cit., 457) một cách đặc biệt này không trở nên một
phần việc tầm thường đối với toàn thể sứ vụ của tất cả Dân Chúa, khiến cho việc
ấy bị bỏ bê hay quên lãng.
Ngoài ra,
các ranh giới phân chia giữa việc mục vụ chăm sóc tín hữu, việc
tân truyền bá phúc âm hoá và việc hoạt động truyền
giáo chuyên biệt không thể nào phân định được một cách rõ ràng, cũng
không được nghĩ là chúng sẽ tạo nên những cản trở cho nhau, hay nghĩ rằng chúng
là những ao tù. Tuy nhiên, cũng không được làm suy yếu lòng hăng say rao giảng
Phúc Âm và thiết lập các Giáo Hội mới ở nơi các dân nước, hay ở các cộng đồng
chưa có mặt của Giáo Hội, vì đây là công việc tiên quyết của Giáo Hội, một Giáo
Hội đã được sai đến với tất cả mọi dân nước và cho đến tận cùng trái đất. Nếu
không thực hiện việc truyền giáo ad gentes này, thì chiều kích
truyền giáo của Giáo Hội sẽ bị mất đi ý nghĩa thiết yếu của mình, cũng như sẽ
thiếu mất chính hoạt động biểu lộ chiều kích ấy.
Cũng cần
phải lưu ý đến việc liên thuộc thực sự và tăng lên giữa những
hoạt động cứu độ khác nhau này của Giáo Hội. Mỗi hoạt động này đều ảnh hưởng
lẫn nhau, kích động lẫn nhau và hỗ trợ lẫn nhau. Việc đẩy mạnh vấn đề truyền
giáo khuyến khích những mối tương giao giữa các Giáo Hội, và hướng các Giáo Hội
tới một thế giới rộng mở hơn, bằng những ảnh hưởng tích cực trong mọi lãnh vực.
Các Giáo Hội ở những xứ sở theo truyền thống Kitô giáo chẳng hạn, phải bận tâm
vào việc tân truyền bá phúc âm hoá gay go, đang hiểu được một cách rõ ràng là,
họ không thể là các nhà truyền giáo cho các người ngoài Kitô giáo, ở các quê
hương đất nước hay địa lục khác, nếu họ không hết sức quan tâm tới những người
ngoài Kitô giáo tại phần đất của mình. Do đó, hoạt động truyền giáo ad
intra (nội tại hay đối nội) là một dấu chỉ khả tín và là một kích
thích cho hoạt động truyền giáo ad extra (ngoại tại hay đối
ngoại), ngược lại cũng thế.
Truyền Giáo cho Mọi Người, bất
chấp Khó Khăn
35-Vấn đề truyền giáo ad gentes đụng phải một công viê? lớn
lao, một việc không thể nào thiếu được. Thật vậy, cả về quan điểm tăng phát
nhân số, cũng như về quan điểm văn hoá xã hội liên quan đến hình thức nơi các
mối liên hệ mới, đến những việc giao tiếp mới và những tình trạng thay đổi mới,
thì việc truyền giáo dường như được nhắm tới những chân trời rộng mở hơn bao
giờ hết. Công việc loan báo Chúa Giêsu Kitô cho tất cả mọi dân nước thật là vĩ
đại, vượt ra ngoài tất cả mọi tầm mức cân đối theo nguồn lực nhân loại của Giáo
Hội.
Nếu đây là
một vấn đề hoàn toàn thuộc về công cuộc của loài người thìnhững khó khăn ấy
sẽ không thể nào vượt qua nổi và có thể dễ bị thất đảm. Ở một số xứ sở đã từ
chối không cho các nhà truyền giáo vào. Tại những nơi khác, chẳng những cấm không
được thực hiện việc truyền bá phúc âm hoá mà còn cấm cả việc trở lại nữa, thậm
chí cả việc thờ phượng theo Kitô giáo. Có nơi trở ngại gây ra bởi bản chất của
văn hoá, như việc truyền đạt sứ điệp Phúc Âm được coi là không thích hợp hay
không thể nào hiểu nổi, và việc trở lại được coi như là việc ruồng bỏ dân tộc
cùng với văn hoá của mình.
36-Cũng không thiếu những khó khăn ở ngay trong nội
bộ của thành phần Dân Chúa; thật vậy, những khó khăn này là niềm đau
đớn nhất của tất cả mọi người. Cái khó khăn đầu tiên được Ðức Giáo Hoàng Phaolô
VI vạch ra cho thấy là "việc thiếu lòng sốt mến. Trở ngại này càng trầm
trọng hơn nữa vì nó phát xuất từ bên trong. Nó bộc lộ cho thấy ở chỗ mệt mỏi,
mất hăng hái, dung hòa, thiếu hào hứng, nhất là thiếu vui vẻ và hy vọng" (Tông
Huấn Evangelii Nuntiandi, đoạn 80: loc. cit., 73). Những trở ngại
lớn lao khác đối với hoạt động truyền giáo của Giáo Hội bao gồm cả những vấn đề
chia rẽ giữa Kitô hữu với nhau (xem Công Ðồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về
Hoạt Ðộng Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 6), vấn đề băng
hoại kitô giáo trong các xứ sở Kitô giáo, vấn đề sa sút ơn kêu gọi hoạt động
tông đồ, và vấn đề chứng từ nơi tín hữu cũng như cộng đồng Kitô hữu không biểu
lộ bằng việc sống theo gương Chúa Kitô. Thế nhưng, một trong những lý do nghiêm
trọng nhất đối với tình trạng thiếu hứng khởi trong công việc truyền giáo đó là
cái khuynh hướng đầy những dửng dưng, một khuynh hướng mà tiếc thay cũng xẩy ra
nơi cả thành phần các Kitô hữu nữa. Khuynh hướng này bắt nguồn từ các quan điểm
thần học sai lầm, có đặc tính của khuynh hướng đạo nghĩa tương đối, để rồi chủ
trương là "đạo nào cũng tốt như nhau". Với những lời của Ðức Giáo
Hoàng Phaolô VI, chúng ta có thể thêm là, còn có một số "những lý do tránh
né làm ngăn trở việc truyền bá phúc âm hoá. Chắc chắn lý do tránh né tai hại
ngấm ngầm nhất đó là những lý do người ta nại vào giáo huấn này nọ của Công
Ðồng Chung Vaticanô II" (Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, đoạn
80: loc. cit., 73).
Về khía cạnh
này, Tôi tha thiết xin các nhà thần học và các phóng viên Kitô giáo chuyên
nghiệp hãy tăng gia việc phục vụ của mình cho việc truyền giáo của Giáo Hội, để
nhận thức được ý nghĩa sâu xa nơi việc mình làm, khi dựa theo những đường lối
vững chắc là "cùng suy nghĩ với Giáo Hội" (sentire cum Ecclesia).
Những khó
khăn bên trong và bên ngoài không được làm cho chúng ta bi quan và bất động.
Cái cần, ở đây cũng như ở mọi lãnh vực khác của đời sống Kitô hữu, đó là lòng
cậy trông theo đức tin, bằng một niềm xác tín chúng ta không phải là tác nhân
chính của việc Giáo Hội truyền giáo, mà là Chúa Giêsu Kitô cùng với Thần Linh
của Người. Chúng ta chỉ là thành phần cộng sự viên, và khi chúng ta làm xong
tất cả mọi sự chúng ta phải nói rằng: "Chúng tôi là những người đầy tớ bất
xứng; chúng tôi chỉ làm những gì theo phận sự của mình mà thôi" (Lk
17:10).
Những Tính Chất của Việc Giáo
Hội Truyền Giáo
ad gentes
ad gentes
37-Theo mệnh lệnh phổ quát của Chúa Kitô, việc truyền giáo ad gentes không
còn biết đến biên cương bờ cõi nữa. Tuy nhiên, để nắm vững được tình thế, cũng
nên xác định một số mốc điểm cần thiết cho việc truyền giáo.
(a) Những Giới Hạn Về Lãnh Thổ. Hoạt động truyền giáo thường
được xác định bởi những lãnh thổ riêng biệt. Công Ðồng Chung Vaticanô II đã
công nhân chiều kích lãnh thổ nơi việc truyền giáo ad gentes này
(xem Công Ðồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt Ðộng Truyền Giáo của Giáo
Hội Ad Gentes, đoạn 6), một chiều kích ngay cả tới ngày hôm nay đây
vẫn còn quan trọng đối với việc phân định trách nhiệm, hoạt động và giới hạn về
địa dư của hoạt động truyền giáo. Việc truyền giáo phổ quát chắc chắn bao hàm
cả một quan điểm đại đồng. Thật vậy, Giáo Hội không để cho nhà truyền giáo của
mình bị cản trở bởi các giới tuyến về địa dư hay các ngăn trở về chính trị. Tuy
nhiên, cũng phải công nhận là, vì khác với việc mục vụ chăm sóc cho tín hữu,
cũng như khác với việc tân truyền bá phúc âm hoá cho thành phần không sống đạo,
hoạt động truyền giáo ad gentes chỉ thực hiện tại các lãnh thổ
và các nhóm người được ấn định rõ ràng.
Chúng ta
cũng không được ảo tưởng về việc phát triển thêm một số Giáo Hội mới trong
những thời gian gần đây. Trong các lãnh thổ được ký thác cho các Giáo Hội này
-đặc biệt là ở Á Châu, cũng như ở Phi Châu, ở Châu Mỹ La Tinh và ở Ðại Dương
Châu -vẫn còn có những vùng rộng lớn chưa được truyền bá phúc âm hoá. Nơi nhiều
quốc gia có cả khối dân chúng và những lãnh vực văn hoá mang tầm vóc quan trọng
vẫn chưa được nghe loan báo về Phúc Âm và về việc hiện diện của Giáo Hội địa
phương (xem ibid., 20). Ngay cả nơi những xứ sở Kitô giáo lâu đời cũng có những
miền còn đang được việc truyền giáo ad gentes đặc biệt thực
hiện cho những nhóm người và những khu vực chưa được truyền bá phúc âm hoá. Bởi
vậy, nơi cả những xứ sở này nữa, chẳng những cần đến việc tân truyền bá phúc âm
hoá mà còn, ở một số trường hợp, cần đến việc bắt đầu truyền bá phúc âm hoá nữa
(xem Diễn Tư?ngỏ với các phần tử của Hội Nghị của Công Ðồng Các Hội
Ðồng Giám Mục Âu Châu, ngày 11-10-1985: AAS 78 -1986 -178-189).
Tuy nhiên,
không phải ở đâu cũng có những trường hợp như nhau. Khi công nhận rằng những
câu phát biểu về trách nhiệm truyền giáo của Giáo Hội sẽ không có công hiệu gì,
nếu chúng không được nâng đỡ bằng một cuộc dấn thân thực sự cho việc tân truyền
bá phúc âm hoá nơi các xứ sở Kitô giáo lâu đời, thì không có nghĩa là coi họ
giống hệt như trường hợp của một dân tộc chưa bao giờ biết đến Chúa Giêsu Kitô,
cũng như trường hợp của một dân tộc đã biết Người, chấp nhận Người và rồi lại
phủ nhận Người, trong khi đó họ vẫn tiếp tục sống theo một nền văn hoá mà phần
lớn được thấm nhiễm các nguyên tắc và giá trị Phúc Âm. Xét về đức tin thì đây
là hai trường hợp khác nhau tận căn bản.
Bởi vậy,
tiêu chuẩn về địa dư, mặc dầu có một cái gì đó không chính xác cho lắm và luôn
luôn tạm bợ vậy thôi, cũng vẫn là một ấn định vững chắc về những giới tuyến
được hoạt động truyền giáo nhắm tới. Có những xứ sở cũng như những lãnh vực về
địa dư và về văn hoá thiếu những cộng đồng Kitô hữu bản xứ. Ở những nơi khác,
những cộng đồng này lại quá nhỏ, đến nỗi không phải là một dấu hiệu rõ ràng cho
thấy việc hiện diện của Kitô giáo; hay họ thiếu năng động để truyền bá phúc âm
hoá cho các cơ cấu tổ chức của họ, hoặc họ thuộc về một thành phần thiểu số
không hội nhập với nền văn hoá chính của quốc gia. Ðặc biệt ở Á Châu là lục địa
mà việc truyền giáo của Giáo Hội ad gentes phải chủ yếu nhắm
tới, Kitô hữu chỉ là một thiểu số nhỏ bé, mặc dù đôi khi có một con số trở lại
đáng kể và có những gương sáng nổi bật qua việc hiện diện của Kitô hữu.
(b) Những
tân thế giới và những hiện tượng mới. Những biến
đổi nhanh chóng và sâu xa làm nên đặc tính của thế giới ngày nay, nhất là ở nam
bán cầu, đang tác dụng mạnh trên toàn diện bức ảnh truyền giáo. Nơi mà trước
kia có những trường hợp nhân bản và xã hội vững chắc thì nay mọi sự lại không
ngừng chuyển biến. Chẳng hạn, người ta nghĩ đến việc thành thị hoá và việc các
phố xá mọc lên như nấm, nhất là nơi có mật độ dân cư đông đúc. Ở nơi một số
không ít quốc gia, hơn nửa dân số sống tại một vài địa điểm
"megalopolises", tức là nơi phát xuất các tệ nạn, thường gây ra bởi
khối người tự cảm thấy cái vô danh phận của mình.
Trong thời
đại tân tiến này, hoạt động truyền giáo cần phải được thực hiện đặc biệt ở
những khu vực cô lập lẻ loi, xa biệt với các trung tâm văn minh, cũng là những
nơi khó xâm nhập, bởi những khó khăn về truyền thông, ngôn ngữ hay khí hậu.
Ngày nay, hình ảnh của việc truyền giáo ad gentes có lẽ đang
thay đổi, đó là phải tập trung nỗ lực vào các thành thị lớn, nơi mà những tập
tục và lối sống mới, xuất phát cùng với những thể thức mới về văn hoá và truyền
thông là những yếu tố ảnh hưởng đến phần đông dân chúng. Người ta nghĩ đúng,
"việc chọn thành phần cùng khốn nhất" tức là việc chúng ta không được
chểnh mảng đối với những nhóm người bị bỏ rơi và lẻ loi nhất, thế nhưng, người
ta nghĩ cũng không sai, đó là, nếu chúng ta bỏ rơi những trung tâm, nơi có thể
nói, đang xuất hiện một thứ tân nhân loại, và là nơi đang hình thành những mô
thức phát triển mới, thì có những con người hay những nhóm nhỏ sẽ không được
truyền bá phúc âm hoá cho. Tương lai của các quốc gia trẻ trung đang hình thành
tại các thành phố.
Nói đến
tương lai, chúng ta không thể không nói đến giới trẻ, thành phần làm nên hơn
nửa phần dân số ở nhiều quốc gia. Chúng ta làm sao có thể mang sứ điệp của Chúa
Kitô đến cho giới trẻ không phải là Kitô hữu, thành phần tiêu biểu cho tương
lai của toàn thể các đại lục. Những phương tiện thông thường trong hoạt động
mục vụ rõ ràng cho thấy là vẫn chưa đủ: cái cần thiết ở đây đó là những hội
đoàn, những tổ chức, những trung tâm và nhóm hội chuyên biệt, cũng như những
khởi xướng về văn hoá và xã hội dành cho giới trẻ. Ðây là một lãnh vực cho các
phong trào tân thời của giáo hội hoạt động mạnh hơn.
Trong số
những biến chuyển lớn đang xẩy ra trên thế giới hiện đại, việc di dân đã nẩy
sinh ra một hiện tượng mới, đó là thành phần ngoài Kitô giáo đang tăng số rất
đông tại các xứ sở Kitô giáo lâu đời, tạo nên những cơ hội mới mẻ cho việc tiếp
xúc và trao đổi văn hoá, cũng như những cơ hội để Giáo Hội tỏ ra nồng hậu, đối
thoại, trợ giúp, và, tắt một lời, thân ái. Trong số những người di dân, phải đề
cao và chú trọng đến các người tị nạn. Ngày nay, trên thế giới có nhiều triệu
người tị nạn, và con số những người tị nạn này không ngừng tăng lên. Họ đào
thoát cho khỏi những hoàn cảnh bị đàn áp về chính trị và phải sống trong cùng
khốn vô nhân bản, khỏi đói khát gây ra bởi những tỷ lệ về tai ương. Giáo Hội
phải coi họ như một phần trong toàn thể mối quan tâm tông đồ của mình.
Sau hết,
chúng ta cần đề cập tới những trường hợp nghèo khó -thường ở trên một mức độ
không thể nào chấp nhận được -đã xẩy ra ở một số không ít xứ sở, và thường là
nguyên cớ gây nên việc di dân đông đảo. Cộng đồng tín hữu trong Chúa Kitô phải
đương đầu với những trường hợp vô nhân bản ấy, ở chỗ, họ phải loan báo Chúa
Kitô và Vương Quốc của Thiên Chúa như là một phương tiện để phục hồi phẩm giá
của con người cho những người này.
(c) Những
lãnh vực văn hoá: hình ảnh tân thời của Công Hội Viện Hy Lạp. Sau khi rao giảng ở một số nơi, Thánh Phaolô đến Nhã Ðiển, nơi ngài vào
Công Hội Viện của họ và loan báo Phúc Âm bằng ngôn ngữ thích hợp, dễ hiểu trong
các khung cảnh đó (x. Acts 17:22-31). Vào thời bấy giờ, Công Hội Viện là tiêu
biểu cho trung tâm văn hoá của thành phần học thức ở Nhã Ðiển, và ngày nay nó
có thể được coi như một biểu hiệu cho các lãnh vực mới cần phải được loan báo Phúc
Âm.
Công Hội
Viện đầu tiên của thời hiện đại là lãnh giới truyền thông,
một lãnh giới đang liên kết nhân loại lại và đang biến nhân loại thành cái gọi
là "khu làng hoàn vũ". Phương tiện truyền thông xã hội đã trở nên
quan trọng đến nỗi, đối với nhiều người, là phương tiện chính để trao đổi tin
tức và giáo dục, để hướng dẫn và tác động hành vi cử chỉ nơi cá nhân, gia đình
và trong xã hội nói chung. Nhất là đối với thế hệ trẻ trung đang lớn lên trong
một thế giới được môi trường truyền thông vây bủa. Có lẽ thứ Công Hội Viện này
đã bị bỏ bê ở một mức độ nào đó. Nói chung, chúng ta đã chú trọng đến các
phương tiện khác để rao giảng Phúc Âm và để giáo dục Kitô hữu hơn, còn môi
trường truyền thông thì bỏ mặc cho sáng kiến cá nhân hay cho các nhóm nhỏ nào
đó, và đặt nó vào hàng thứ yếu trong chương trình mục vụ của mình. Thế nhưng,
việc dấn thân vào môi trường truyền thông không phải chỉ để làm tăng cường thêm
cho việc rao giảng Phúc Âm thôi. Còn có một thực tại sâu xa hơn chất chứa ở đó
nữa: vì chính việc truyền bá phúc âm hoá cho văn hoá tân tiến ngày nay một phần
lớn tùy thuộc vào ảnh hưởng của truyền thông, nên chỉ sử dụng truyền thông để
quảng bá sứ điệp Kitô giáo và giáo huấn chân thực của Giáo Hội mà thôi chưa đủ.
Cũng cần phải đưa sứ điệp vào "nền văn hoá mới" do các phương tiện
truyền thông tân tiến tạo nên nữa. Ðây là một vấn đề phức tạp, vì "nền văn
hoá mới" này bắt nguồn chẳng những từ bất cứ những gì được tỏ hiện ra dần
dần, mà còn ở chính những cách truyền đạt mới, với ngôn từ mới, với kỹ thuật
mới và với một thứ tâm lý mới. Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói rằng "việc
phân ly giữa Phúc Âm và văn hoá là một thảm trạng không tránh được của thời đại
chúng ta" (Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, đoạn 20; loc. cit.,
19), và ngành truyền thông hoàn toàn cho thấy rõ được nhận định này.
Còn nhiều
hình thức Công Hội Viện khác trong thế giới tân tiến ngày nay là những mục tiêu
được hoạt động truyền giáo của Giáo Hội nhắm đến; chẳng hạn, việc dấn thân cho
hòa bình, phát triển và giải phóng các dân tộc; các quyền lợi của cá nhân cũng
như của các dân tộc, nhất là của thành phần thiểu số; việc thăng tiến nữ giới
và trẻ em; việc bảo vệ thế giới thiên nhiên. Cả những lãnh vực này nữa cũng cần
phải được ánh sáng Phúc Âm soi chiếu.
Chúng ta
cũng phải đề cập tới một Công Hội Viện bao rộng về văn hoá, về việc nghiên cứu
khoa học cũng như về các mối liên hệ quốc tế cổ võ việc đối thoại và tạo nên
những cơ hội mới. Chúng ta cũng phải để ý đến những lãnh vực hoạt động tân tiến
này và phải tham gia vào làm việc. Người ta cảm thấy rằng, họ đang thực sự cùng
nhau vượt qua biển cả cuộc đời, nên họ được kêu gọi hiệp nhất và đoàn kết với
nhau đặc biệt hơn bao giờ hết. Những đường lối cho các vấn đề cấp thiết phải
được mọi người bắt tay nhau để tìm hiểu, bàn bạc và giải quyết. Ðó là lý do tại
sao càng cần đến những tổ chức và hội nghị quốc tế cho nhiều lãnh vực của đời
sống con người, từ văn hoá đến chính trị, từ kinh tế tới việc nghiên cứu. Kitô
hữu sống và làm việc trong lãnh vực quốc tế phải luôn luôn nhớ đến phận vụ của
mình trong việc làm chứng cho Phúc Âm.
38-Thời điểm của chúng ta đây vừa đại thể lại vừa thu hút. Một đàng, người ta
dường như đang theo đuổi sự thịnh vượng về vật chất và đang ngụp lặn sâu hơn
bao giờ hết vào xu hường hưởng thụ và duy vật, thì đàng khác, chúng ta lại đang
chứng kiến thấy một cuộc chán chường quay về tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời, về nhu
cầu sống nội tâm, về ước muốn học hỏi thêm những thể thức và phương pháp mới
trong việc suy niệm cũng như cầu nguyện. Người ta đang tìm kiếm chiều kích
thiêng liêng của đời sống như là một chất giải độc sau đó cho tình trạng suy
giảm nhân bản, chẳng những ở nơi có các nền văn hoá nặng về yếu tố đạo nghĩa,
mà còn ở cả những nơi xã hội bị tục hoá nữa. Hiện tượng này -được gọi là hiện
tượng "hồi sinh đạo nghĩa" -mang một tính cách không phải là không
mập mờ, song nó cũng cho thấy đó là một cơ hội tốt. Giáo Hội mang trong mình
một di sản thiêng liêng vĩ đại để cống hiến cho nhân loại, một di sản trong
Chúa Kitô, Ðấng gọi mình "là đường, là sự thật và là sự sống" (Jn
14:6), tức là đường lối của Kitô giáo, một đường lối dẫn con người đến gặp gỡ
Thiên Chúa, đến việc nguyện cầu, đến việc hãm mình khổ chế, cũng như đến việc
tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời. Ðây cũng là một "Công Hội Viện" cần phải
được truyền bá phúc âm hoá nữa.
Trung Thành với Chúa
Kitô
và Phát Huy Tự Do Con Người
và Phát Huy Tự Do Con Người
39-Tất cả mọi hình thức của hoạt động truyền giáo đều được đánh dấu bởi nhận
thức là, con người đang cổ võ quyền tự do của con người bằng việc loan báo Chúa
Giêsu Kitô. Giáo Hội phải trung thành với Chúa Kitô là Ðấng Giáo Hội là Thân
Thể và là Ðấng có sứ mệnh đang được Giáo Hội tiếp nối. Giáo Hội cần phải
"đi cùng một con đường Chúa Kitô đã đi -tức là con đường nghèo khó, tuân
phục, phục vụ và tự hy hiến bản thân mình cho đến chết để trở thành Ðấng chiến
thắng bằng việc Phục Sinh của mình" (Công Ðồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh
về Hoạt Ðộng Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 5; xem Hiến
Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, đoạn 8). Bởi thế, Giáo Hội
buộc phải làm mọi sự có thể để thực hiện sứ mệnh truyền giáo của mình trong thế
giới và cho tất cả mọi dân tộc. Giáo Hội có quyền làm điều này, một quyền lợi
Thiên Chúa đã ban cho Giáo Hội để hoàn thành dự án của Ngài. Quyền tự do tôn
giáo, một quyền lợi có những lúc vẫn còn bị giới hạn và ngăn chặn, vốn là quyền
lợi tiên quyết và bảo đảm cho tất cả mọi quyền tự do khác, những quyền tự do
bảo toàn công ích cho cá nhân cũng như dân chúng. Người ta cần phải hy vọng là
tất cả mọi người ở khắp mọi nơi sẽ được hưởng quyền tự do tôn giáo đích thực.
Giáo Hội tranh đấu cho quyền tự do này ở tất cả mọi xứ sở, nhất là ở những xứ
sở đa số là Công Giáo, nơi Giáo Hội có một ảnh hưởng lớn. Thế nhưng, đây không
phải là vấn đề tôn giáo của số đông hay của số ít, mà là vấn đề của quyền lợi
bất khả tách lìa của mỗi một con người và mọi con người.
Về phần
mình, Giáo Hội hướng về con người bằng tất cả lòng tôn trọng quyền tự do của họ
(xem Công Ðồng Chung Vaticanô II, Tuyên Ngôn về Tự Do Tôn GiáoDignitatis
Humanae, đoạn 3-4; ÐTC Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi,
đoạn 79-80: loc. cit., 71-75; ÐTC Gioan Phaolô II, Thông Ðiệp Redemptor
Hominis, đoạn 12: loc. cit., 278-281). Sứ mệnh của Giáo Hội không làm hạn
chế quyền tự do mà trái lại còn cổ động cho nó nữa. Giáo Hội tôn trọng cá nhân
cũng như văn hoá, và Giáo Hội tôn kính thánh cung lương tâm của con người. Với
những ai chống lại hoạt động truyền giáo của Giáo Hội, vì những lý do khác nhau
nào đó, Giáo Hội lập lại là Xin hãy mở cửa cho Chúa Kitô!
Ðến đây, Tôi
muốn ngỏ lời cùng tất cả mọi Giáo Hội riêng, mới cũng như cũ. Thế giới đang vững
vàng tiến tới chỗ liên kết với nhau hơn, nên tinh thần Phúc Âm phải làm cho
chúng ta vượt qua những chướng ngại về văn hoá cũng như về quốc gia dân tộc,
bằng cách tránh đi tất cả mọi thái độ cô lập. Ðức Giáo Hoàng Bênêđictô XV đã
cảnh giác các nhà truyền giáo thời của ngài cho họ khỏi "quên phẩm vị xứng
hợp của họ và nghĩ đến quê hương trần gian của họ hơn là đến quê hương trên
trời" (Thông Ðiệp Maximum Illud: loc. cit., 446). Lời khuyên
nhủ tương tự sau đây vẫn còn công hiệu cho ngày hôm nay đối với các Giáo Hội
riêng: Hãy mở cửa cho các nhà truyền giáo, vì "mỗi một Giáo Hội riêng tự ý
muốn tách mình ra khỏi Giáo Hội hoàn vũ, thì sẽ bị mất đi mối liên hệ với dự án
của Thiên Chúa, và sẽ trở thành nghèo nàn về mặt giáo hội của mình" (Ðức
Thánh Cha Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, đoạn 62: loc.
cit., 52).
Hướng Chú Ý tới Miền Nam và
Miền Ðông
40-Ngày nay, hoạt động truyền giáo vẫn cho thấy đó là cả một thách đố lớn lao
nhất đối với Giáo Hội. Ðã gần kết thúc đệ nhị Thiên Niên của Công Cuộc Cứu
Chuộc rồi mà vẫn thấy rõ là nhiều người trong đa số nhân loại vẫn chưa được
nghe rao giảng về Chúa Kitô lần đầu tiên gì cả. Các thành quả của hoạt động
truyền giáo trong thời đại tân tiến hết sức là tốt đẹp. Giáo Hội đã được thiết
lập trên mọi lục địa; thật thế, ngày nay đa số tín hữu và các Giáo Hội riêng
không còn phải chỉ có nguyên ở Âu Châu nữa, mà là ở trên các lục địa được các
nhà truyền giáo gieo vãi đức tin.
Tuy nhiên,
sự kiện về "tận cùng trái đất" là nơi Phúc Âm phải được mang đến vẫn
càng ngày càng xa cách hơn bao giờ hết. Lời của giáo phụ Tertullianô về việc
Phúc Âm được loan truyền khắp cùng trái đất và cho tất cả mọi dân tộc
(xem De Praescriptione Haereticorum, XX: CCL I, 201f) vẫn còn rất
xa vời với thực tại. Việc truyền giáo ad gentes vẫn còn trong tình
trạng non nớt của mình. Các dân tộc mới xuất hiện trên khung cảnh thế giới, và
cả họ nữa cũng có quyền để nghe loan báo về ơn cứu độ. Việc phát triển dân số
nơi các đất nước không phải Kitô giáo ở Miền Nam và Miền Ðông đang không ngừng
tăng nhân số, thành phần vẫn chưa biết gì đến Việc Cứu Chuộc của Chúa Kitô cả.
Thế nên,
chúng ta cần hướng chú ý của mình tới những miền đất và những môi trường văn
hoá còn đang ở ngoài ảnh hưởng của Phúc Âm. Tất cả mọi người tin tưởng nơi Chúa
Kitô phải cảm thấy, như một phần nguyên vẹn thuộc đức tin của mình, mối quan
tâm tông đồ trong việc truyền đạt cho những người khác ánh sáng và niềm vui của
đức tin. Mối quan tâm này phải trở nên thực sự là một niềm đói khát trong việc
làm cho Chúa được nhận biết, được trao ban cho cả một thế giới lớn rộng ngoài
Kitô giáo.
V
NHỮNG ÐƯỜNG LỐI TRUYỀN GIÁO
"Hoạt
động truyền giáo của Giáo Hội không gì khác và không gì hơn là việc bộc lộ hay
là việc tỏ hiện dự án của Thiên Chúa, cùng với việc làm hoàn tất dự án này trên
thế giới cũng như trong lịch sử, một lịch sử Thiên Chúa đang minh nhiên hoàn
thành lịch sử cứu độ bằng các việc truyền giáo" (Công Ðồng Chung Vaticanô
II, Sắc Lệnh về Hoạt Ðộng Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn
9; xem Chương II, 10-18). Vậy Giáo Hội sẽ dùng đường lối nào để đạt được mục
đích này?
Hình Thức Ðầu Tiên
của Việc Truyền Giáo là Làm Chứng
của Việc Truyền Giáo là Làm Chứng
42-Con người ngày nay tin tưởng vào các chứng nhân hơn là vào các thày dạy
(xem ÐTC Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, đoạn 41: loc.
cit., 31f), vào nghiệm cảm hơn là vào giảng thuyết, và vào cuộc sống cũng như
hành động hơn là vào các lý thuyết. Chứng từ của đời sống Kitô hữu là thể thức
đầu tiên không thể thay thế của việc truyền giáo: Chúa Kitô, Ðấng chúng ta đang
tiếp nối việc truyền giáo của Người, là một "chứng từ" (Rev 1:5,
3:14) tuyệt nhất, và là mẫu mực cho tất cả mọi chứng từ Kitô giáo.
Chúa Thánh Thần đồng hành với Giáo Hội dọc suốt con đường Giáo Hội đi, và liên
kết với Giáo Hội bằng chứng từ Ngài thực hiện để tỏ Chúa Kitô ra (x. Jn
15:26-27).
Thể thức đầu
tiên của việc làm chứng là chính đời sống của nhà truyền giáo, của gia
đình Kitô hữu và của cộng đồng giáo hội, là những gì tỏ ra cho thấy một lối
sống mới. Nhà truyền giáo, người bất chấp mọi giới hạn và yếu kém của mình,
sống một cuộc đời giản dị, lấy Chúa Kitô làm mô phạm, là dấu chỉ của Thiên Chúa
và của các thực tại siêu việt. Thế nhưng, hết mọi người trong Giáo Hội, bằng
việc cố gắng bắt chước Thày Chí Thánh, cũng đều có thể và phải thực hiện chứng
từ đời sống này (xem Công Ðồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế Tín Lý về Giáo HộiLumen
Gentium, đoạn 28, 35, 38; Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong Thế Giới Ngày
nay Gaudium et Spes, đoạn 43; Sắc Lệnh về Hoạt Ðộng Truyền Giáo của
Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 11-12); trong nhiều trường hợp, chứng từ
loại này là một cách duy nhất khả dĩ để trở thành một nhà truyền giáo.
Chứng từ của
phúc âm hết sức cần thiết cho thế giới này là chứng từ của việc quan tâm đến
con người, cũng như đến đức bác ái đối với thành phần nghèo khó, thành phần yếu
kém và những kẻ khổ đau. Tấm lòng hết sức quảng đại nấp sau thái độ ấy cũng như
sau những hành động ấy hoàn toàn đi ngược lại với tính vị kỷ của con người. Nó
gợi lên những thắc mắc xác đáng để dẫn con người đến cùng Thiên Chúa và Phúc
Âm. Việc dấn thân cho hòa bình, cho công lý, cho nhân quyền, và cho việc cổ võ
nhân bản cũng là một chứng từ cho Phúc Âm, khi chứng từ ấy là một mối quan tâm
tới con người và nhắm đến việc phát triển con người toàn vẹn (xem ÐTC Phaolô
VI, Thông Ðiệp Populorum Progressio -26/3/1967 -đoạn 21, 42:
AAS 59 -1967 -267f, 278).
43-Kitô hữu và các cộng đồng Kitô hữu đóng góp rất nhiều vào cuộc sinh hoạt
nơi đất nước khả kính của họ, và có thể trở thành dấu chỉ Phúc Âm, khi họ trung
thành với quê hương, dân tộc và văn hoá đất nước của mình, mà vẫn luôn luôn giữ
được tự do Chúa Kitô ban cho. Kitô giáo hướng về tình huynh đệ đại đồng, vì tất
cả mọi người nam nữ đều là những người con của cùng một Cha và là anh chị em
trong Chúa Kitô.
Giáo Hội
được kêu gọi để làm chứng cho Chúa Kitô, bằng việc can đảm lên tiếng đối đầu
với tình trạng băng hoại của quyền lực chính trị hay kinh tế; bằng cách không
tìm kiếm vinh dự và giầu sang vật chất cho mình; bằng việc sử dụng các nguồn
lợi của mình để phục vụ thành phần nghèo khổ nhất, và bằng việc bắt chước đời
sống giản dị của Chúa Kitô. Giáo Hội và các nhà truyền giáo của Giáo Hội cũng
phải thực hiện chứng từ khiêm nhượng, nhất là khiêm nhượng đối với bản thân
mình -một đức khiêm nhượng giúp họ xét lại lương tâm cá nhân cũng như cộng
đồng, để sửa đổi hành vi của mình nơi bất cứ điều gì trái với Phúc Âm và làm
biến dạng dung nhan của Chúa Kitô.
Việc Loan Báo Tiên Khởi về
Chúa Kitô Cứu Ðộ
44-Việc loan báo là ưu tiên mãi mãi của việc truyền giáo. Giáo Hội không thể
trốn tránh lệnh truyền hiển nhiên của Chúa Kitô, hay để cho con người nam nữ
không biết đến "Tin Mừng" về việc họ được Thiên Chúa yêu thương và
cứu độ. "Việc truyền bá phúc âm hoá cũng sẽ luôn luôn chất chứa -như nền
tảng, trọng tâm và đồng thời cũng là tột đỉnh cơ cấu của nó -một loan báo minh
nhiên là, nơi Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người, Ðấng đã chết và sống
lại từ trong kẻ chết, ơn cứu độ được hiến ban cho tất cả mọi người như một tặng
vật của ân sủng và của tình thương Thiên Chúa (x.Eph.2:8; Rm.1:16...)"
(ÐTC Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, đoạn 27: loc. cit.,
23). Tất cả mọi thể thức của hoạt động truyền giáo đều nhắm đến việc loan
truyền này, một việc loan truyền bày tỏ và dẫn đến một mầu nhiệm được giữ kín
qua các thời đại và được tỏ ra cho thấy nơi Chúa Kitô (x. Eph 3:3-9; Col
1:25-29), mầu nhiệm ở ngay cốt lõi của sứ mệnh truyền giáo và đời sống Giáo
Hội, làm mấu chốt chi phối toàn thể việc truyền bá phúc âm hoá.
Trong thực
tại phức tạp của việc truyền giáo, việc rao giảng tiên khởi đóng một vai trò
trọng yếu và không thể thay thế được, vì nó đem con người "vào mầu nhiệm
tình yêu Thiên Chúa, Ðấng mời gọi họ dự phần cùng mối liên hệ riêng tư với
chính Ngài trong Chúa Kitô" (Công Ðồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt
Ðộng Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 13), và mở đường cho
họ trở về với Ngài. Ðức tin được phát sinh từ việc rao giảng, và mọi cộng đồng
giáo hội đều được bắt nguồn và sống động từ việc đáp ứng riêng tư của mỗi tín
hữu đối với việc rao giảng này (xem ÐTC Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii
Nuntiandi, đoạn 15: loc. cit., 13-15; Công Ðồng Chung vaticanô II, Sắc Lệnh
về Hoạt Ðộng Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 13-14). Như
toàn thể công cuộc cứu độ lấy Chúa Kitô làm tâm điểm thế nào, thì toàn thể hoạt
động truyền giáo cũng nhắm đến việc loan truyền mầu nhiệm của Người như vậy.
Chủ đề cho
việc loan truyền này là Chúa Kitô chịu đóng đanh, tử nạn và phục sinh: nhờ
Người chúng ta hoàn toàn và thực sự được giải thoát khỏi sự dữ, tội lỗi và sự
chết; và nhờ Người Thiên Chúa ban "sự sống mới" là sự sống thần linh
và trường cửu. Ðó là "Tin Mừng" làm thay đổi con người và lịch sử của
con người, và là "Tin Mừng" tất cả mọi dân tộc có quyền được nghe
biết. Việc loan truyền này phải được thực hiện trong mối tương quan với cuộc
sống của con người cũng như của các dân tộc nghe biết. Việc loan truyền này
phải được thực hiện bằng một thái độ yêu thương và trọng kính đối với những ai
nghe biết, bằng một thứ ngôn từ thực tế và thích ứng với hoàn cảnh. Qua việc
loan truyền này, Thần Linh hoạt động và thiết lập mối hiệp thông giữa nhà
truyền giáo và thính giả của họ, một mối hiệp thông khả dĩ vì cả hai đều tham
dự vào mối hiệp thông với Thiên Chúa là Cha qua Chúa Kitô (xem Thông Ðiệp Dominum
et Vivificantem, đoạn 42, 64: loc. cit., 857-859, 892-894).
45-Bởi được liên kết với toàn thể cộng đồng giáo hội, việc loan truyền ấy
không bao giờ là một tác động thuần cá nhân. Nhà truyền giáo hiện diện và thi
hành công việc của mình theo lệnh truyền nhận được; cho dù có hoạt động một
mình đi nữa, họ vẫn gắn liền bằng một mối giây liên kết chặt chẽ vô hình với
hoạt động truyền bá phúc âm hoá của toàn thể Giáo Hội (xem ÐTC Phaolô VI, Tông
HuấnEvangelii Nuntiandi, đoạn 60: loc. cit., 50f). Không sớm thì muộn
thính giả của họ cũng nhận ra nơi họ cộng đồng đã sai họ đi và đang nâng đỡ họ.
Việc loan
truyền này được đức tin khơi động, một đức tin phát sinh lòng nhiệt thành và
sốt mến nơi nhà truyền giáo. Như đã được đề cập, Sách Tông Vụ dùng chữ parrhesia để
diễn tả thái độ này, một từ ngữ có nghĩa là nói lên một cách tỏ tường và can
trường. Từ ngữ này cũng được thấy cả nơi Thánh Phaolô nữa: "Chúng tôi đã
can đảm trong Thiên Chúa của mình để công bố cho anh em Phúc Âm của Thiên Chúa
trước sự chống đối cả thể" (1Thes 2:2); "Hãy cầu nguyện... cho tôi
nữa, để tôi được can đảm mở miệng ra loan truyền mầu nhiệm Phúc Âm mà tôi là khâm
sai trong xiềng xích; để tôi có thể công bố mầu nhiệm Phúc Âm này một cách vững
mạnh như tôi phải nói" (Eph 6:18-20).
Trong việc
loan báo Chúa Kitô cho các người ngoài Kitô giáo, nhà truyền giáo phải xác tín
rằng, nhờ hoạt động của Thần Linh, nơi con người cũng như các dân tộc đã có một
niềm mong chờ, cho dù chỉ là một niềm mong chờ trong tiềm thức, được biết đến
sự thật về Thiên Chúa, về con người và về cách thức chúng ta được giải thoát
khỏi tội lỗi và sự chết. Lòng nhiệt thành của nhà truyền giáo trong việc loan
báo Chúa Kitô phát xuất từ niềm xác tín là họ đang đáp ứng niềm mong chờ ấy,
bởi thế, họ không bị chán nản hay ngưng việc làm chứng nhân, cho dù họ được kêu
gọi chứng tỏ đức tin của mình trong một môi trường thù hận hay lãnh đạm. Họ
biết rằng Thần Linh của Cha đang nói qua họ (x. Mt 10:17-20; Lk 12:11-12), và
họ có thể nói cùng với các Tông Ðồ là: "Chúng tôi là những chứng nhân về
những điều này, có cả Thánh Thần làm chứng nữa" (Acts 5:32). Họ biết rằng
họ không loan truyền một sự thật của nhân loại mà là chính "lời
Chúa", lời có một quyền năng tự tại và nhiệm mầu của mình" (x. Rm
1:16).
Cuộc thử
thách cao cả nhất là hiến sự sống mình, cho đến độ chấp nhận cái chết để làm
chứng lòng mình tin tưởng nơi Chúa Giêsu Kitô. Trải suốt giòng lịch sử Kitô
giáo, các vị tử đạo, hay là "các chứng nhân", bao giờ cũng nhiều và
không thể thiếu được trong việc truyền bá Phúc Âm. Trong thời đại của chúng ta
đây, có nhiều Giám Mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, giáo dân -thường là những vị
anh hùng vô danh, thành phần hiến mạng sống mình để làm chứng cho đức tin. Họ
là tin mừng và là chứng nhân đức tin tuyệt hạng.
Hoán Cải và Lãnh Nhận Phép Rửa
46-Việc loan truyền lời Chúa nhắm đến việc làm cho con người trở lại làm Kitô
hữu, tức là làm cho con người hoàn toàn và chân thành gắn bó với Chúa Kitô và
Phúc Âm của Người bằng đức tin. Việc trở lại là một tặng ân của Thiên Chúa, một
công việc của Chúa Ba Ngôi. Chính Thần Linh là Ðấng mở lòng con người ra để họ
tin vào Chúa Kitô và "tuyên xưng Người" (x. 1Cor. 12:3); "Không
ai đến được với Tôi nếu Cha là Ðấng sai Tôi không lôi kéo họ" (Jn 6:44),
Chúa Giêsu đã nói với những ai đến với Người bằng đức tin như thế.
Việc trở lại
bằng đức tin đầu tiên là một việc trọn vẹn và sâu xa, và là một việc không làm
giới hạn hay cản trở tặng ân của Thiên Chúa. Việc trở lại này cũng làm phát
sinh một tiến trình năng động kéo dài cả đời, một tiến trình đòi phải liên tục
từ bỏ "cuộc sống theo xác thịt" để "sống theo Thần Linh"
(x. Rom 8:3-13). Việc trở lại tức là tự động chấp nhận vương quyền cứu độ của
Chúa Kitô để làm môn đệ của Người.
Theo gương
Thánh Gioan Tẩy Giả, vị dọn đường cho Chúa Kitô bằng "việc rao giảng phép
rửa thống hối để được ơn tha tội" (Mk 1:4), cũng như theo gương chính Chúa
Kitô, Ðấng "sau khi Gioan bị tống ngục... đã đến Galilêa rao giảng Phúc Âm
Chúa mà nói: ?Thời điểm đã trọn, vương quốc Thiên Chúa đã đến; hãy ăn năn hối
cải và tin vào Phúc Âm?" (Mk 1:14-15), Giáo Hội cũng kêu gọi tất cả mọi
người hãy ăn năn trở lại.
Cho đến nay,
lời các nhà truyền giáo kêu gọi những người ngoài Kitô giáo trở lại đã được tái
xét hay không được nhắc đến nữa. Việc trở lại này được coi như là một tác động
"mộ giáo"; người ta cho rằng chỉ cần giúp cho con người nên người hơn
hay trung thành với đạo của họ là đủ rồi, tức là chỉ cần xây dựng những cộng
đồng có khả năng hoạt động cho công lý, tự do, hòa bình và đoàn kết là đủ. Cái
người ta bỏ qua không nói tới ở đây đó là mọi người có quyền nghe biết
"Tin Mừng" của Thiên Chúa, Ðấng trong Chúa Kitô đã tỏ mình và ban
mình ra cho con người, để mỗi một người có thể sống trọn vẹn với ơn gọi xứng
hợp của riêng mình. Thực tại cao cả này được diễn tả qua những lời Chúa Giêsu
nói với người phụ nữ Samaritanô: "Nếu chị biết ơn Thiên Chúa ban",
cũng như qua ước vọng vô tri song tha thiết của chị phụ nữ này: "Xin ông
hãy cho tôi thứ nước này để tôi không còn khát nữa" (Jn 4:20,15).
47-Ðược Thần Linh tác động, các Vị Tông Ðồ đã mời gọi tất cả mọi người hoán
cải đời sống của họ, trở lại và lãnh nhận phép rửa. Ngay sau biến cố Chúa Thánh
Thần Hiện Xuống, Thánh Phêrô đã nói với đám đông dân chúng những lời đánh động:
"Khi nghe thấy vậy, họ cảm thấu đến tận đáy lòng, nên nói với Thánh Phêrô
cùng với các Vị Tông Ðồ rằng: ?Thưa Quí Huynh, chúng tôi cần phải làm sao đây??
Thánh Phêrô nói với họ: ?Anh em hãy ăn năn thống hối và mọi
người trong anh em hãy lãnh nhận phép rửa nhân danh Chúa Giêsu Kitô để được ơn
tha thứ tội lỗi; rồi anh em sẽ được lãnh nhận tặng ân Thánh Thần?" (Acts
2:37-38). Chính ngày hôm đó có ba ngàn người được rửa tội. Lần khác, sau khi
chữa lành cho một người què, Thánh Phêrô nói với đám đông dân chúng, bằng cách
lập lại rằng: "Bởi thế anh em hãy ăn năn thống hối và trở
lại để tội lỗi của anh em được tẩy xoá!" (Acts 3:19).
Việc trở lại
cùng Chúa Kitô là một việc gắn liền với Phép Rửa, chẳng những vì tập truyền của
Giáo Hội, mà còn vì ý của chính Chúa Kitô, Ðấng đã sai các Tông Ðồ đi tuyển mộ
môn đệ ở tất cả mọi dân nước và rửa tội cho họ (x. Mt 28:19). Việc trở lại gắn
liền với Phép Rửa còn vì chính nhu cầu cần phải lãnh nhận tràn đầy sự sống mới
trong Chúa Kitô nữa. Như Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô: "Thật vậy, thật vậy,
Tôi cho ông biết, ai không được sinh lại bởi nước và Thần Linh, người ấy không
được vào Nước Thiên Chúa" (Jn 3:5). Ðúng thế, trong Phép Rửa, chúng ta
được tái sinh vào sự sống của con cái Thiên Chúa, được hiệp nhất với Chúa Giêsu
Kitô và được xức dầu trong Chúa Thánh Thần. Phép Rửa không phải chỉ là một ấn
tín của việc trở lại, một thứ dấu hiệu bề ngoài cho thấy việc trở lại và chứng
tỏ việc trở lại. Trái lại, Phép Rửa là một Bí Tích biểu hiệu cho việc tái sinh
bởi Thần Linh và làm cho việc tái sinh bởi Thần Linh hiệu thành, phép này thiết
lập những mối liên hệ thật sự và không thể đứt đoạn với Chúa Ba Ngôi, phép này
cũng làm cho chúng ta nên các chi thể của Thân Mình Chúa Kitô là Giáo Hội.
Phải nói đến
tất cả những điều này là vì không ít người, ngay cả đến những người đang hoạt
động cho việc truyền giáo ad gentes, có một khuynh hướng muốn tách
việc trở lại với Chúa Kitô và việc lãnh nhận Phép Rửa ra khỏi nhau, như thể
Phép Rửa là một cái gì không cần. Thật vậy, ở một số nơi, những cứu xét về xã
hội học liên quan tới Phép Rửa đã làm lu mờ đi ý nghĩa đích thực của Phép Rửa
là một tác động của đức tin. Sự việc này xẩy ra là do các yếu tố khác nhau về
lịch sử cũng như về văn hoá, những yếu tố phải được loại bỏ nếu còn tồn tại, để
Bí Tích tái sinh thiêng liêng có thể được quan niệm đúng như bản chất của mình.
Các cộng đoàn giáo hội địa phương phải chú trọng đến việc này. Cũng phải nhận
rằng, có nhiều người tỏ lòng muốn chấp nhận Chúa Kitô và sứ điệp của Người song
không muốn chấp nhận bằng việc lãnh nhận bí tích, là vì thành kiến hay vì những
thiếu sót nơi Kitô hữu đã làm cho họ không thể hiểu được bản tính thực sự của
Giáo Hội là mầu nhiệm của đức tin và đức mến (xem Công Ðồng Chung Vaticanô II,
Hiến Chế về Giáo HộiLumen Gentium, đoạn 6-9). Tôi muốn khuyến khích
những người như vậy hãy hoàn toàn mở lòng mình ra cho Chúa Kitô, và muôn nhắc
nhở với họ là, nếu họ cảm thấy được lôi kéo đến cùng Chúa Kitô, thì chính Người
là Ðấng muốn Giáo Hội phải là "nơi" thực sự họ tìm được Người. Tôi
cũng mời gọi tín hữu Kitô giáo, cá nhân cũng như cộng đồng, hãy thực sự làm
chứng cho Chúa Kitô bằng sự sống mới họ đã lãnh nhận.
Chắc chắn
người nào trở lại cũng đều là một quà tặng cho Giáo Hội và làm cho Giáo Hội
thấy rằng mình phải có một trách nhiệm đàng hoàng đối với họ, không phải vì
những người trở lại cần phải được sửa soạn dọn mình lãnh nhận Bí Tích qua thời
gian dự tòng và học đạo, mà còn, nhất là trong trường hợp trở lại của người
lớn, vì nơi những người trở lại này có một thứ nghị lực mới, một lòng nhiệt
thành đối với đức tin và muốn sống Phúc Âm trong Giáo Hội. Một khi gia nhập
cộng đồng giáo hội, họ sẽ hết sức thất vọng nếu họ chứng kiến thấy một sự sống
thiếu sốt mến và chẳng có dấu hiệu gì là mới mẻ cả! Chúng ta không thể rao
giảng việc ăn năn hoán cải, trừ phi chính chúng ta biết tái ăn năn hoán cải mỗi
ngày.
Hình Thành Giáo Hội Ðịa Phương
48-Việc trở lại và Phép Rửa mở lối gia nhập vào một Giáo Hội đã có sẵn, hay
đòi phải thiết lập những cộng đồng mới là những cộng đồng tuyên xưng Chúa Giêsu
là Ðấng Cứu Thế và là Chúa. Ðây là phần thuộc về dự án của Thiên Chúa, vì Ngài
muốn "kêu gọi con người thông phần vào sự sống của Ngài, không phải chỉ
theo cá nhân, không có liên hệ gì với nhau, mà còn làm cho họ thành một dân tộc
bao gồm những đứa con của Ngài bị phân tán khắp nơi qui tụ lại với nhau nên
một" (Công Ðồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt Ðộng Truyền Giáo của
Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 2; xem Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen
Gentium, đoạn 9).
Việc truyền
giáo ad gentes nhắm đến mục tiêu là thiết lập các cộng đồng
Kitô giáo và phát triển các Giáo Hội cho đến mức hoàn toàn trưởng thành. Ðó là
mục đích chính yếu và ấn định của hoạt động truyền giáo, đến nỗi việc truyền
giáo sẽ không hoàn thành cho đến khi tiến tới việc thiết lập một tân Giáo Hội
riêng biệt, một Giáo Hội có thể sinh hoạt bình thường ở môi trường địa phương
của mình. Sắc Lệnh Ad Gentes đã trình bày dài về vấn đề này
(xem Chương III, 19-22), và vì Công Ðồng Chung Vaticanô II chủ trương theo
chiều hướng thần học chú trọng đến toàn thể mầu nhiệm Giáo Hội được thể hiện
nơi mỗi Giáo Hội riêng, miễn là Giáo Hội riêng không tự mình cô lập song vẫn
giữ mối hiệp thông với Giáo Hội hoàn vũ, để rồi cũng trở thành một nhà truyền
giáo. Ở đây chúng ta đang nói đến một tiến trình rộng lớn và dài dòng, khó lòng
xác định được chính xác giai đoạn nào thực sự đáng được gọi là giai đoạn kết
thúc hoạt động truyền giáo để tiến sang hoạt động mục vụ. Tuy nhiên, cũng cần
phải làm sáng tỏ một số điểm chính.
49-Trước hết và trên hết, cần phải nỗ lực để thiết lập các cộng đồng Kitô giáo
ở khắp nơi, các cộng đồng làm nên "dấu hiệu hiện diện của Thiên Chúa trên
thế giới" (ibid., 15), và là những cộng đồng phát triển cho tới khi trở
thành Các Giáo Hội. Mặc dù đã có một con số khá đông các địa phận, song vẫn còn
nhiều miền rất rộng không có Giáo Hội địa phương, hay không đủ số tín hữu trong
một lãnh thổ rộng lớn với một mật độ dân cư đông đảo. Còn nhiều điều phải làm
trong việc gieo trồng và phát triển Giáo Hội. Giai đoạn hình thành giáo hội
được gọi là plantatio Ecclesia này chưa đạt đến đích điểm của
mình; thật vậy, đối với nhiều người thuộc giòng dõi nhân loại thì giai đoạn này
thậm chí cũng chưa được bắt đầu nữa.
Trách nhiệm
phải làm công việc này là của Giáo Hội hoàn vũ cũng như của các Giáo Hội riêng,
của toàn thể Dân Chúa cũng như của tất cả mọi lực lượng truyền giáo trong Dân
Chúa. Hết mọi Giáo Hội, ngay cả Giáo Hội được hình thành bởi những người mới
trở lại đi nữa, tự bản chất của mình, đều là truyền giáo, và vừa được truyền bá
phúc âm hoá cho vừa thực hiện truyền bá phúc âm hoá. Ðức tin bao giờ cũng phải
được tỏ ra cho thấy như là một tặng ân của Thiên Chúa sinh động trong cộng đồng
(gia đình, giáo xứ, hội đoàn), và vươn tới người khác bằng chứng từ lời nói
cũng như việc làm. Hoạt động truyền bá phúc âm hoá của cộng đồng Kitô hữu,
trước tiên ở tại địa phương của mình, rồi tới các nơi khác trong phạm vi truyền
giáo phổ quát của Giáo Hội. Chúa luôn luôn kêu gọi chúng ta ra khỏi bản thân
mình để chia sẻ với người khác các sản vật chúng ta có, bắt đầu là đức tin, món
quà tặng qúi nhất. Thành quả của các tổ chức, phong trào, giáo xứ và việc tông
đồ của Giáo Hội đều được căn cứ vào chiều hướng thực hiện việc truyền giáo buộc
phải làm này. Chỉ nhờ trở thành truyền giáo cộng đồng Kitô hữu mới có thể thắng
vượt được những chia rẽ và căng thẳng nội tại, cũng như mới có thể tái khám phá
thấy mối hiệp nhất và sức mạnh đức tin của mình.
Nhân viên
truyền giáo được sai đến từ các Giáo Hội và các quốc gia khác phải hoạt động
trong mối hiệp thông với quí vị trách nhiệm địa phương của mình để làm phát
triển cộng đồng Kitô hữu. Nhân viên truyền giáo đặc biệt phải -theo qui định
của các vị Giám Mục và hợp tác với những vị có trách nhiệm ở cấp độ địa phương
-duy trì việc quảng bá đức tin cùng với việc làm cho Giáo Hội lan tới những môi
trường ngoài Kitô giáo cũng như tới nơi những nhóm người không phải Kitô hữu,
và làm phấn khởi ở Giáo Hội riêng cái cảm quan truyền giáo, để mối quan tâm mục
vụ luôn luôn được gắn liền với mối quan tâm truyền giáo ad gentes.
Có thế, hết mọi Giáo Hội mới cảm nghiệm được nơi mình nỗi bận tâm của Chúa Kitô
Mục Tử Nhân Lành, Ðấng hoàn toàn hiến mình phục vụ cho đàn chiên, song vẫn nghĩ
tới "các chiên khác chưa thuộc về đàn này" (Jn 10:16).
50-Nỗi bận tâm này sẽ trở nên như động lực khích thích để tái tấu cuộc dấn
thân hoạt động cho việc đại kết. Mối liên hệ giữa hoạt động đại kết và hoạt
động truyền giáo làm phát sinh ra hai yếu tố gắn liền với nhau cần
phải được cứu xét. Một đàng, chúng ta phải nhận thức rằng: "Tình trạng Kitô
hữu chia rẽ nhau làm hư hại đến công cuộc thánh hảo của việc rao giảng Phúc Âm
cho mọi tạo vật và là một trở ngại cho nhiều người tiến đến với đức tin"
(ibid. 6). Ở chỗ, Tin Mừng hòa giải do Kitô hữu lại là thành phần chia rẽ nhau
rao giảng sẽ làm cho chứng từ của họ mất đi giá trị. Bởi thế, rất cần phải hoạt
động cho việc hiệp nhất Kitô giáo, để hoạt động truyền giáo được sinh hoa kết
trái hơn. Chúng ta cũng không được quên rằng, các nỗ lực hướng về tình trạng
hiệp nhất này, tự chúng, chỉ là dấu hiệu cho việc hòa giải Thiên Chúa đang mang
lại giữa chúng ta.
Ðàng khác,
cũng thực sự có một cái gì đó hiệp thông, mặc dù bất toàn, giữa tất cả những
người lãnh nhận Phép Rửa trong Chúa Kitô. Bởi thế, Công Ðồng đã ấn định một
nguyên tắc là: "trong khi chờ đợi để nêu lên tất cả những gì có vẻ khác
nhau và lầm lẫn, cũng như những gì có vẻ chống đối nhau không lành mạnh, người
Công Giáo phải lấy tinh thần hiệp thông mà hợp tác với các anh chị em ly khai
của mình, theo các qui định của Sắc Lệnh về Ðại Kết: bằng một bản tuyên xưng
chung đức tin của mình nơi Thiên Chúa và nơi Chúa Giêsu Kitô trước mặt các dân
nước bao nhiêu có thể, cũng như bằng việc cộng tác với nhau trong các vấn đề về
xã hội và kỹ thuật, về văn hoá và tôn giáo" (ibid. 6; xem Sắc Lệnh về Ðại Kết Unitatis
Redintegratio, đoạn 3).
Việc Kitô
hữu thuộc các Giáo Hội khác nhau và các Cộng Ðồng Giáo Hội khác nhau thực hiện
hoạt động đại kết và chứng từ hòa hợp cho Chúa Giêsu Kitô đã mang lại hoa trái
dồi dào. Thế nhưng, hơn bao giờ hết, khi mà Kitô hữu và các giáo phái pha phôi
Kitô giáo đang nỗ lực gieo rắc lầm lạc, thì họ lại càng phải cùng nhau hoạt
động và làm chứng hơn nữa. Việc lan tràn những giáo phái này cho thấy mối đe
dọa đối với Giáo Hội Công Giáo cũng như đối với tất cả mọi Cộng Ðồng Giáo Hội
đang cùng Giáo Hội Công Giáo đối thoại. Mối đe dọa này xẩy ra bất cứ ở đâu, thì
theo chiều hướng của hoàn cảnh địa phương, việc các Kitô hữu cùng nhau phản ứng
lại, tự nó, là một việc đại kết vậy.
"Các Giáo Hội Căn
Bản"
là Lực Lượng Truyền Bá Phúc Âm
là Lực Lượng Truyền Bá Phúc Âm
51-Có một hiện tượng phát triển nhanh chóng nơi các Giáo Hội trẻ trung -một
hiện tượng đôi khi được các vị Giám Mục và Hội Ðồng Giám Mục của các vị cho là
một ưu tiên mục vụ -đó là hiện tượng "các cộng đoàn giáo hội cơ bản"
(cũng được gọi bằng các danh xưng khác nữa), những cộng đoàn đang chứng tỏ cho
thấy là những trung tâm ích lợi cho việc đào tạo Kitô hữu cũng như việc dấn
thân truyền giáo. Ðây là những nhóm Kitô hữu, ở cấp độ gia đình hay trong một
môi trường thu hẹp tương tự nào đó, họp nhau lại để nguyện cầu, đọc Thánh Kinh,
học giáo lý và bàn luận về các vấn đề nhân bản cũng như giáo hội với ý hướng
dấn thân hoạt động chung. Những cộng đoàn này là dấu sinh động trong Giáo Hội,
là dụng cụ huấn luyện và truyền bá phúc âm hoá, cũng là một khởi điểm vững vàng
cho một tân xã hội được xây dựng trên một "nền văn minh yêu thương".
Những cộng
đoàn này phân nhỏ cộng đồng giáo xứ và làm nên cộng đồng giáo xứ, một cộng đồng
mà họ vẫn gắn bó. Họ đi sâu vào những miền kém may mắn và quê mùa làng mạc, để
trở nên men của đời sống Kitô giáo, của việc chăm sóc người nghèo và bị bỏ rơi,
cũng như của việc dấn thân làm cho xã hội được biến đổi. Nơi những cộng đoàn
giáo hội cơ bản này, cá nhân Kitô hữu cảm nghiệm được cộng đồng, nhờ đó, họ cảm
thấy họ đang đóng một vai trò chủ động và được phấn khởi để thông công làm việc
chung. Như thế, các cộng đoàn này trở nên một phương tiện truyền bá phúc âm hoá
và là việc rao giảng tiên khởi cho Phúc Âm, cũng là nguồn của các thừa tác vụ
mới. Ngoài ra, được thấm nhập tình yêu Kitô giáo, các cộng đoàn này còn chứng
tỏ cho thấy họ có thể thắng vượt được những chia rẽ, giòng tộc và chủng tộc.
Hết mọi cộng
đoàn, nếu thực sự là Kitô giáo, đều phải được thiết lập trên Chúa Kitô và sống
trong Người, ở chỗ lắng nghe lời Chúa, tập trung việc cầu nguyện của mình vào
Thánh Thể, sống hiệp thông với nhau bằng việc nên một lòng trí, cũng như chia
sẻ cho nhau tùy theo nhu cầu cần thiết của các phần tử (x. Acts 2:42-47). Như
Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nhắc nhở, hết mọi cộng đoàn này phải sống hiệp nhất
với Giáo Hội riêng cũng như với Giáo Hội hoàn vũ, hoàn toàn hiệp thông với các
Vị Chủ Chăn và Huấn Quyền của Giáo Hội, bằng quyết tâm hoạt động truyền giáo và
không nhường bước cho khuynh hướng cô lập hoá hay những khai thác thuộc ý thức
hệ (xem Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, đoạn 58: loc. cit., 46-49).
Cuộc Thượng Hội Giám Mục Thế Giới năm 1985 lên tiếng như sau: "Vì Giáo Hội
là hiệp thông, ?các cộng đoàn cơ bản? mới, nếu thực sự hiệp nhất với Giáo Hội,
mới là thực sự thể hiện mối hiệp thông này và mới là phương tiện kiến tạo nên
một mối hiệp thông sâu xa hơn. Có thế, những cộng đoàn cơ bản ấy mới là nguồn
hy vọng dồi dào cho đời sống của Giáo Hội" (Final Report, II, C,
6).
VI
CÁC VỊ LÃNH ÐẠO VÀ NHÂN VIÊN
CỦA VIỆC TÔNG ÐỒ TRUYỀN GIÁO
Không có các
chứng nhân cũng không có chứng từ, cũng như không có các nhà truyền giáo cũng
không có hoạt động truyền giáo vậy. Chúa Giêsu đã chọn và sai con người đi để
làm chứng nhân và tông đồ cho Người, nhờ đó, họ được thông phần vào sứ vụ của
Người và tiếp tục công cuộc cứu độ của Người: "Các con sẽ là chứng nhân
của Thày ở Gialiêm, khắp Giuđêa và Samaria cho đến tận cùng trái đất"
(Acts 1:8).
Mười Hai Vị
là những người đầu tiên hoạt động trong sứ vụ truyền giáo đại đồng của Giáo
Hội. Các vị hợp thành một "chủ thể đoàn" của sứ vụ này, khi các vị
được Chúa Giêsu tuyển chọn ở với Người và được Người sai đến "với chiên
lạc nhà Yến-Duyên" (Mt 10:6). Tính cách hợp đoàn này cũng không che dấu
được một số nhân vật nổi nang trong nhóm của các vị, như Thánh Giacôbê, Thánh
Gioan và nhất là Thánh Phêrô, vị nổi nhất đúng như câu nói: "Phêrô và các
Tông Ðồ khác" (Acts 2:14, 37). Chính nhờ Thánh Phêrô mà chân trời sứ vụ
đại đồng của Giáo Hội được trải rộng ra, và mở đường cho công cuộc truyền giáo
ngoại hạng của Thánh Phaolô, vị được kêu gọi và sai đi đến với các dân nước
theo ý muốn của Thiên Chúa" (x. Gal 1:15-16).
Trong việc
lan rộng việc truyền giáo của Giáo Hội sơ khai, chúng ta thấy, cùng với các vị
Tông Ðồ, còn có những nhân vật thấp vai hơn, song những người chúng ta cũng
không được coi thường. Ðây là những cá nhân, nhóm người và cộng đồng. Ðiển hình
là Giáo Hội địa phương ở Antiôkia, một cộng đồng mà, sau khi được truyền bá
phúc âm hoá cho, đã trở nên một cộng đồng truyền bá phúc âm hoá, một cộng đồng
sai các nhà truyền giáo đến các nơi khác (x. Acts 13:2-3). Giáo Hội sơ khai cảm
nghiệm được sứ vụ truyền giáo của mình là một công việc làm cộng đồng, nhưng
cũng công nhận ở nơi mình có cả "những vị thừa sai đặc biệt" hay
"những nhà truyền giáo chuyên lo cho Dân Ngoại", như Thánh Phaolô và
Banabê.
62- Những gì được thực hiện ngay từ ban đầu của Kitô Giáo trong việc trải
rộng sứ vụ truyền giáo đại đồng của mình vẫn còn hiệu lực và trở nên khẩn thiết
vào lúc này đây. Giáo Hội tự bản chất là truyền giáo, vì lệnh
truyền của Chúa Kitô không phải là một cái gì ngẫu nhiên hay bề ngoài, mà là
những gì chạm đến chính con tim của Giáo Hội. Thế nên, Giáo Hội hoàn vũ và mỗi
một Giáo Hội mới được sai đến với các dân nước. Chính vì "để cho lòng
nhiệt thành truyền giáo này có thể nở hoa nơi dân tộc của mình", mà việc
các Giáo Hội trẻ rất cần phải "chia sẻ vào công việc truyền giáo đại đồng
của Giáo Hội sớm bao nhiêu có thể. Họ phải tự sai các nhà truyền giáo đi loan
truyền Phúc Âm khắp thế giới, cho dù họ có bị thiếu hụt giáo sĩ chăng nữa"
(Công Ðồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt Ðộng Truyền Giáo của Giáo
Hội Ad Gentes, đoạn 20). Nhiều Giáo Hội riêng đã làm như thế, Tôi
hết sức khuyến khích họ hãy tiếp tục công việc này.
Nơi mối liên
hệ chính yếu này giữa Giáo Hội hoàn vũ và các Giáo Hội riêng, chúng ta thấy thể
hiện thực sự bản chất truyền giáo đích thật và trọn vẹn của Giáo Hội:
"Trong một thế giới đang thu hẹp lại khoảng cách làm cho thế giới càng nhỏ
hơn, thì các cộng đồng Giáo Hội càng phải liên kết với nhau, trao đổi các nguồn
lực và nguồn lợi cần thiết, để trở thành một nhóm dấn thân thực hiện sứ vụ
truyền giáo duy nhất chung trong việc loan truyền và sống Phúc Âm... Các Giáo
Hội được gọi là trẻ trung cần phải lấy sức lực từ các Giáo Hội lâu đời hơn, và
các Giáo Hội lâu đời hơn cần đến chứng từ và động lực của các Giáo Hội trẻ
trung, để mỗi một Giáo Hội có thể rút ra được những gì là phong phú của
nhau" (Tông Huấn Christifideles Laici, đoạn 35: loc. cit.,
458)
Những Người Có Trách
Nhiệm
với Hoạt Ðộng Truyền Giáo
với Hoạt Ðộng Truyền Giáo
63-Như Chúa Phục Sinh đã ra lệnh truyền giáo đại đồng cho Tông Ðồ Ðoàn dưới
quyền lãnh đạo của Thánh Phêrô thế nào, thì nay trách nhiệm ấy cũng được ủy
thác chính yếu cho Giám Mục Ðoàn dưới quyền lãnh đạo của Vị Kế Thừa Thánh Phêrô
như vậy (xem Công Ðồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt Ðộng Truyền Giáo của
Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 38). Nhận thức được trách nhiệm này, Tôi
cảm thấy có nhiệm vụ phải nói về vấn đề ấy trong những cuộc gặp gỡ với các Giám
Mục, liên quan đến việc tân truyền bá phúc âm hoá cũng như đến sứ vụ truyền
giáo đại đồng. Tôi đã tông du khắp thế giới để "loan truyền Phúc Âm, để
?làm cho anh em mình vững mạnh? trong niềm tin, để an ủi Giáo Hội, để gặp gỡ
dân chúng. Các cuộc tông du này là những cuộc hành trình đức tin... chúng cũng
là những dịp để dạy giáo lý di động, những dịp loan truyền Phúc Âm bằng việc
quảng bá Phúc Âm và Huấn Quyền tông truyền cho tất cả mọi nơi trên thế
giới" (Bài Diễn Từ ngỏ với Các Vị Hồng Y và những người làm
việc ở Tòa Thánh Rôma, ở Thành Vatican và ở Giáo Phận Rôma, ngày 28/6/1980, 10:
Insegnamenti, III/1 -năm 1980 -1887).
Các vị Giám
Mục anh em của Tôi, cùng với Tôi, có trách nhiệm trực tiếp đối với việc truyền
bá phúc âm hoá thế giới, với tư cách vừa là một phần tử của Giám Mục Ðoàn, vừa
là vị Chủ Chiên của Giáo Hội riêng. Về khía cạnh này, Công Ðồng nói:
"Trách nhiệm loan truyền Phúc Âm khắp thế giới là trách nhiệm thuộc về chủ
chiên đoàn, về tất cả những ai Chúa Kitô đã truyền lệnh chung" (Hiến Chế
Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, đoạn 23). Công Ðồng còn nói rằng,
các vị Giám Mục "đã được thánh hiến không phải chỉ để cho giáo phận riêng
mà còn cho việc cứu độ của toàn thế giới nữa" (Sắc Lệnh về Hoạt Ðộng
Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 38). Trách nhiệm chung này
cần phải có một số những việc làm thực tiễn. Bởi thế, "Cuộc Họp của các vị
Giám Mục... trong số những quan tâm quan trọng chung chung khác, phải đặc biệt
để ý đến hoạt động truyền giáo, một nhiệm vụ cao cả nhất và thánh hảo nhất của
Giáo Hội" (ibid. 29). Trách nhiệm này cũng phải được phản ánh, ở những cấp
độ khác nhau, nơi Các Hội Ðồng Giám Mục cũng như nơi những cơ cấu của các hội
đồng này ở tầm vóc quốc tế, đó là trách nhiệm phải tự mình đóng góp vào việc
truyền giáo (xem ibid. 38).
Cả mỗi một
vị Giám Mục cũng thế, với vai trò là Mục Tử của Giáo Hội riêng, các vị có một
nhiệm vụ truyền giáo bao rộng. Các vị nhận lấy nhiệm vụ này "như một người
quản trị và như trọng tâm của mối hiệp nhất nơi việc tông đồ thuộc giáo phận,
để cổ võ hoạt động truyền giáo, để hướng dẫn và điều hợp công việc này... Các
vị cũng cần phải biết rằng, hoạt động tông đồ không chỉ giới hạn nơi những
người đã trở lại, mà còn là một chia sẻ công bình, cả về nhân viên cũng như
ngân quĩ, cho việc truyền bá phúc âm hoá các người ngoài Kitô giáo nữa"
(ibid. 30).
64-Mỗi một Giáo Hội riêng phải tỏ ra quảng đại và mở lòng mình trước những nhu
cầu của các Giáo Hội khác. Việc cộng tác giữa các Giáo Hội, trong một hỗ tương
chính đáng làm cho họ sẵn sàng chia sẻ và nhận lãnh, là một nguồn mạch phong
phú cho chung họ và chạm tới một số lãnh vực khác nhau của đời sống giáo hội.
Ðiển hình về vấn đề này là lời tuyên ngôn của Các Giám Mục ở Puebla: "Cuối
cùng đã đến thời giờ để Mỹ Châu Latinh... hướng tới ad gentes ở
ngoài biên cương bờ cõi của mình. Chúng ta chắc chắn cần đến các nhà truyền
giáo cho chính mình, thế nhưng, chúng ta phải lấy cái nghèo túng của mình mà
cho đi" (Các Văn Thư của Hội Nghị Chung Lần Ba của Các Giám
Mục Mỹ Châu Latinh, ở Puebla năm 1979: 2941 [368]).
Theo tinh
thần này, Tôi kêu gọi các vị Giám Mục và các Hội Ðồng Giám Mục hãy quảng đại để
thực hiện việc áp dụng những khoản về các Qui Tắc được Thánh
Bộ về Giáo Sĩ ban hành, liên quan đến việc cộng tác giữa các Giáo Hội riêng,
nhất là liên quan đến việc phân phối giáo sĩ trên thế giới tốt đẹp hơn (xem Các
Qui Tắc Postquan Apostoli ngày 25/3/1980: AAS 72 năm 1980,
343-364).
Sứ mệnh
truyền giáo của Giáo Hội thì rộng lớn hơn là "việc hiệp thông giữa các
Giáo Hội với nhau"; sứ mệnh này phải được nhắm đến chẳng những vấn đề trợ
giúp vào việc tái truyền bá phúc âm hoá, mà còn và chính yếu vào cả hoạt động
truyền giáo nữa. Tôi kêu gọi tất cả mọi Giáo Hội, mới cũng như cũ, hãy chia sẻ
với nhau mối quan tâm của Tôi đây, bằng việc tìm cách thắng vượt những chướng
ngại khác nhau và làm tăng thêm các ơn gọi truyền giáo.
Các Nhà
Truyền Giáo và Dòng Tu Ad Gentes
65-Giờ đây, cũng như trong quá khứ, những người và những
tổ chức được Sắc Lệnh Ad Gentes dành hẳn một chương đặc biệt
nói đến, mang tựa đề "Các Nhà Truyền Giáo", đang nắm giữ một vị thế
hết sức quan trọng trong số những ai dấn thân vào việc tông đồ truyền giáo.
Ðiều này cần phải cẩn thận suy xét, nhất là về phía các nhà truyền giáo, thành
phần có thể tiến đến chỗ, bởi những đổi thay xẩy ra trong lãnh vực truyền giáo,
không còn hiểu được ý nghĩa nơi ơn gọi của mình nữa, cũng như không còn biết
chính xác những gì Giáo Hội mong đợi ở họ hiện nay nữa.
Sau đây là những lời căn bản của Công Ðồng: "Mặc
dù công việc quảng bá đức tin phải được thực hiện hết sức mình có thuộc về mỗi
một người môn đệ của Chúa Kitô đi nữa, thì Chúa bao giờ cũng kêu gọi những ai
Người muốn, trong số các môn đệ của Người, để họ được ở với Người và để Người
có thể sai họ đi rao giảng cho các dân tộc. Theo đó, nhờ Chúa Thánh Thần, Ðấng
phân phát các tặng ân của mình tùy ý cho lợi ích của tất cả mọi người, Chúa
Kitô khơi dậy ơn gọi truyền giáo nơi cõi lòng nhiều người, đồng thời Người cũng
làm nổi lên trong Giáo Hội những Tu Hội đảm nhận nhiệm vụ truyền bá phúc âm
hoá, một việc truyền bá là trách nhiệm của toàn thể Giáo Hội, như là một việc
làm chuyên biệt của mình" (ibid. 23).
Bởi thế, điều được đề cập đến ở đây là một "ơn
gọi đặc biệt", theo mẫu ơn gọi của các vị Tông Ðồ. Ơn gọi này được biểu lộ
ra nơi việc hoàn toàn dấn thân cho việc truyền bá phúc âm hoá, một việc dấn
thân bao gồm toàn thể bản thân và cuộc sống của nhà truyền giáo, đòi họ phải tự
hiến mình đi đến hết nghị lực và thời giờ của họ. Những ai đã nhận được ơn gọi
này, "do thẩm quyền hợp pháp sai đi, bằng đức tin và lòng tuân phục, đến
với những ai xa cách Chúa Kitô, được dành riêng cho công việc họ được kêu gọi
để làm như những thừa tác viên của Phúc Âm" (ibid). Các nhà truyền giáo
phải luôn luôn suy nghĩ về việc đáp ứng cần có đối với ân huệ họ đã lãnh nhận,
và tiếp tục cập nhật hoá việc học hỏi về tín lý cũng như tông đồ của mình.
66-Các Tu Hội Truyền Giáo, bằng việc
rút kinh nghiệm và việc sáng tạo của mình song vẫn trung thành với đặc sủng của
vị sáng lập, phải lợi dụng tất cả mọi phương tiện cần thiết để bảo đảm cho các
dự sinh truyền giáo của mình được trang bị đầy đủ và được canh tân sinh lực về
tinh thần, về luân lý cũng như về thể lý của họ (ibid. 23, 27). Họ phải cảm
nhận được rằng, họ là một phần thiết yếu của cộng đồng giáo hội, và phải thực
hiện công việc của mình trong mối hiệp thông với cộng đồng này. Thật vậy,
"hết mọi Tu Hội có là vì Giáo Hội và phải làm cho Giáo Hội nên phong phú
bằng những đặc tính chuyên biệt, theo tinh thần đặc thù và sứ vụ chuyên biệt
của mình"; các vị Giám Mục chính là người trông coi việc họ trung thành
với đặc sủng của Hội Dòng họ (xem Thánh Bộ về Dòng Tu và Thánh Bộ về Giám Mục,
Các Hướng Dẫn về Các Mối Liên Hệ giữa Giám Mục và Tu Hội trong Giáo Hội Mutuae
Relationes, ngày 14/5/1978, 14b: AAS 70 năm 1978, 482; cf. n. 28: loc.
cit., 490).
Nói chung, các Tu Hội Truyền Giáo được hình thành
trong Giáo Hội bắt nguồn ở các xứ sở Kitô giáo lâu đời, rồi theo giòng lịch sử,
họ đã trở thành phương tiện cho Thánh Bộ Propaganda Fide sử
dụng để quảng bá đức tin và thành lập các Giáo Hội mới. Ngày nay, những Tu Hội
này mỗi ngày một nhận thêm nhiều các dự sinh từ các Giáo Hội trẻ do họ thiết
lập, trong khi các Tu Hội Truyền Giáo mới đã mọc lên nơi các xứ sở trước kia
chỉ là nơi tiếp nhận các nhà truyền giáo thì nay lại là chỗ gửi các nhà truyền
giáo đi. Ðây là một chiều hướng đáng ca ngợi cho thấy hiệu lực liên tục và cần
thiết nơi ơn gọi truyền giáo chuyên biệt của các Tu Hội này. Các Tu Hội ấy vẫn
"hoàn toàn cần thiết" (Công Ðồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt
Ðộng Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 27), chẳng những cho
hoạt động truyền giáo ad gentes theo truyền thống của họ, mà
còn cho việc khơi động lên lòng sốt mến truyền giáo nơi các Giáo Hội thuộc
những xứ sở Kitô giáo lâu đời cũng như nơi các Giáo Hội trẻ.
Ơn gọi chuyên biệt của các nhà "trọn đời"
truyền giáo này vẫn còn nguyên hiệu lực của nó: nó là mẫu dấn thân truyền giáo
của Giáo Hội, một việc dấn thân truyền giáo cần thực sự và hoàn toàn ban tặng
bản thân mình, cần những nỗ lực mới mẻ và vững mạnh. Vì thế, các nhà truyền
giáo nam nữ, thành phần hiến cả đời mình vào việc làm chứng cho Chúa Phục Sinh
nơi các dân nước, không được để cho mình cảm thấy lung lạc bởi bị ngờ vực, hiểu
lầm, loại trừ hay bách hại. Họ phải phục hồi ân sủng thuộc đặc sủng chuyên biệt
của mình và phải can đảm dấn bước, bằng việc lưu tâm tìm kiếm -theo tinh thần
đức tin, tuân phục và hiệp thông với các vị Chủ Chăn -thành phần hèn kém nhất
và những nơi khó khăn nhất.
Các Linh Mục
Giáo Phận với Việc Truyền Giáo Hoàn Vũ
67-Là cộng sự viện của Giám Mục, các linh mục, bởi Bí
Tích Truyền Chức Thánh, được kêu gọi để thông phần vào mối quan tâm về sứ mệnh
truyền giáo của Giáo Hội: "Tặng ân thiêng liêng các linh mục đã nhận được
khi chịu chức, không phải cho việc truyền giáo nhỏ hẹp và giới hạn, mà là cho
sứ vụ cứu độ đại đồng và gồm tóm hết mọi sự ?cho đến tận thế?. Vì hết mọi thừa
tác vụ tư tế đều thông phần vào mục tiêu đại đồng của sứ mệnh truyền giáo do
Chúa Kitô ủy thác cho các vị Tông Ðồ" (Công Ðồng Chung Vaticanô II, Sắc
Lệnh về Thừa Tác Vụ và Ðời Sống của Linh Mục Presbyterorum Ordinis,
đoạn 10; xem Sắc Lệnh về Hoạt Ðồng Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes,
đoạn 39). Bởi lý do này, việc đào luyện các tuyển sinh cho chức linh mục phải
nhắm đến việc hiến cho họ "một tinh thần Công Giáo thực sự, nhờ đó,
họ sẽ biết làm siêu vượt các giới hạn thuộc giáo phận của họ, xứ sở hay nghi
thức, và cộng tác giúp đỡ toàn thể Giáo Hội, sửa soạn cho việc rao giảng Phúc
Âm khắp mọi nơi" (Công Ðồng Chung vaticanô II, Sắc Lệnh về Việc Ðào Luyện
Linh Mục Optatem Totius, 20). Tất cả mọi linh mục phải có trí khôn
và tâm hồn của các nhà truyền giáo -mở lòng ra trước các nhu cầu của Giáo Hội
cũng như của thế giới, chú ý đến những người xa xôi nhất, nhất là với các nhóm
người ngoài Kitô Giáo trong miền của mình. Họ phải mang trong lòng mình, trong
lời cầu nguyện, nhất là ở Hy Tế Thánh Thể, mối quan tâm của toàn thể Giáo Hội
đối với tất cả nhân loại.
Ðặc biệt ở những miền Kitô hữu chỉ là một thiểu số thì
các linh mục cần phải đầy nhiệt tình và dấn thân truyền giáo hơn nữa. Chúa ủy
thác cho họ chẳng những việc mục vụ chăm sóc cộng đồng Kitô hữu, mà còn và trên
hết việc truyền bá phúc âm hoá cho đồng bào của họ là thành phần không thuộc về
đàn chiên của Chúa Kitô. Các linh mục sẽ "không ngừng làm cho mình lúc nào
cũng sẵn sàng đối với Chúa Thánh Thần cũng như đối với vị Giám Mục để được sai
đi rao giảng Phúc Âm ở ngoài biên cương đất nước của họ. Ðiều này chẳng những
đòi hỏi họ phải trưởng thành trong ơn gọi của họ, mà còn đòi họ phải đặc biệt
sẵn sàng tách lìa quê hương, văn hoá và gia đình của mình, cũng như đòi họ phải
có một khả năng đặc biệt để thích nghi với những văn hoá khác, tỏ ra hiểu biết
và tôn trọng những nền văn hoá ấy" (Bài Diễn Từngỏ với Hội Nghị của
Thánh Bộ Truyền Bá Phúc Âm Hoá cho Các dân Tộc, ngày 14/4/1989, 4: AAS 81 năm
1989, 1140)
68-Trong Bức Thông Ðiệp Fidei Donum, Ðức Giáo
Hoàng Piô XII, bằng việc nhìn xa trông rộng, đã khuyến khích các Giám Mục hãy
cống hiến một số linh mục của mình để tạm thời phục vụ tại các Giáo Hội Phi
Châu, cũng như đã ban phép cho các dự án hiện hành nhắm đến mục tiêu này. Hai
mươi lăm năm sau, Tôi đã vạch ra cho thấy cái mới mẻ đáng chú ý của Bức Thông
Ðiệp này, một bức thông điệp "khỏa lấp khía cạnh về lãnh thổ nơi việc linh
mục phục vụ để hướng nó về toàn thể Giáo Hội" (Sứ Ðiệp cho
Ngày Thế Giới Truyền Giáo, 1982: Insegnamenti V/2 năm 1982, 1879). Ngày nay
kinh nghiệm này đã cho thấy nó hiệu nghiệm và thành quả biết bao. Thật vậy, các
linh mục của Thông Ðiệp Fidei Donum là dấu hiệu đặc thù của
mối liên kết hiệp thông nơi các Giáo Hội. Họ đã đóng góp một cách sáng giá vào
việc phát triển nơi những cộng đồng giáo hội thiếu thốn, trong khi rút lấy từ
các cộng đồng này một đức tin tươi mới và linh hoạt. Dĩ nhiên, việc phục vụ
truyền giáo của linh mục thuộc địa phận phải hợp với một số tiêu chuẩn và điều
kiện nào đó. Các linh mục thừa sai phải được chọn lựa từ những tuyển sinh xứng
hợp nhất, và phải được sửa soạn thích hợp cho công việc đặc biệt đang chờ đợi
họ (xem Công Ðồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt Ðộng Truyền Giáo của Giáo
Hội Ad Gentes, 38; Thánh Bộ về Giáo Sĩ, Các Qui Tắc Postquam
Apostoli, 24-25: loc. cit., 361). Bằng một thái độ cởi mở và huynh đệ, họ phải
trở nên một phần nơi khung cảnh mới của Giáo Hội tiếp nhận họ, và nên một hàng
giáo sĩ với các linh mục địa phương, dưới quyền của vị Giám Mục (Thánh Bộ về
Giáo Sĩ, Các Qui Tắc Postquam Apostoli, 29: loc. cit., 362f; Công
Ðồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt Ðộng Truyền Giáo của Giáo Hội Ad
Gentes, 20). Tôi hy vọng là tinh thần phục vụ sẽ được tăng hơn nơi các linh
mục thuộc những Giáo Hội thiết lập lâu đời, và sẽ được bảo tồn nơi các linh mục
thuộc những Giáo Hội thành lập muộn hơn.
Thành Quả
Truyền Giáo của Ðời Sống Tận Hiến
69-Từ kho tàng Thần Linh khôn lường và đa diện đã phát
sinh ra những ơn gọi của các Tu Hội Tận Hiến có những phần tử, "bởi việc
hiến thân phụng sự Giáo Hội do bằng thánh hiến bản thân mình, có phận sự phải
đóng một vai trò đặc biệt nơi hoạt động truyền giáo, một cách xứng hợp với Tu
Hội của mình" (CIC, c 783). Lịch sử đã chứng tỏ cho thấy các Gia Ðình Dòng
Tu, từ các cơ cấu đan viện cổ xưa, tới các Dòng Tu thời trung cổ, cho đến các
Hội Dòng cận đại hơn, phục vụ Giáo Hội một cách ngoại hạng, bằng việc quảng bá
đức tin và thành lập các Giáo Hội.
(a) Theo tiếng vang vọng của Công Ðồng, Tôi mời gọi
các Tu Hội Chiêm Niệm hãy thiết lập cộng đoàn của mình nơi các
Giáo Hội trẻ, để "rạng ngời minh chứng cho những người ngoài Kitô giáo thấy
được phẩm tính uy nghi cao cả và tình yêu của Thiên Chúa, cũng như thấy được
mối hiệp nhất trong Chúa Kitô" (Sắc Lệnh về Hoạt Ðộng Truyền Giáo của Giáo
Hội Ad Gentes, đoạn 40). Việc hiện diện này làm ích cho khắp thế
giới ngoài Kitô giáo, nhất là ở những miền có các truyền thống tôn giáo coi
trọng đời sống chiêm niệm theo chiều hướng khổ chế nhiệm nhặt cũng như theo
chiều hướng tìm kiếm Ðấng Tối Cao.
(b) Ðối với các Tu Hội Hoạt Ðộng, Tôi đề
nghị họ hãy lợi dụng rất nhiều cơ hội để làm việc bác ái, để loan truyền Phúc
Âm, để thực hiện việc giáo dục Kitô giáo, thực hiện những nỗ lực về văn hoá
Kitô giáo và thực hiện tình đoàn kết Kitô giáo với người nghèo khổ và những
người bị kỳ thị, bỏ rơi và đàn áp. Dù có triệt để theo đuổi mục đích truyền
giáo hay không, những Tu Hội này cũng phải tự hỏi mình phải làm thế nào để tỏ
ra và có thể nới rộng hoạt động của họ cho việc phát triển Vương Quốc của Thiên
Chúa. Trong những thời gian gần đây, nhiều Tu Hội đã đáp ứng lời yêu cầu này,
lời yêu cầu Tôi hy vọng sẽ được để ý tới hơn nữa và được áp dụng hơn nữa, để
việc phục vụ càng ngày càng chuyên chính. Giáo Hội cần phải làm sáng tỏ các giá
trị cao cả của Phúc Âm mà Giáo Hội là người nắm giữ. Không ai làm chứng một
cách công hiệu hơn cho những giá trị Phúc Âm này, cho bằng những người tuyên
khấn sống đời tận hiến giữ mình trinh khiết, khó nghèo và tuân phục, hoàn toàn
hiến mình cho Thiên Chúa và luôn luôn sẵn sàng phục vụ con người cũng như xã
hội theo gương Chúa Kitô (xem ÐTC Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii
Nuntiandi, đoạn 69: loc. cit., 58f).
70-Tôi cũng gửi lời cảm ơn đặc biệt đến các Chị Dòng
truyền giáo, những người biến cuộc sống đồng trinh của mình vì Nước Trời thành
vai trò làm mẹ thiêng liêng dồi dào sinh lực và hoa trái. Chính việc truyền
giáo ad gentes đã hiến cho họ một mục tiêu rộng lớn để
"hy hiến thân mình bằng một lòng yêu thương trọn vẹn không phân chia"
(Tông Thư Mulieris Dignitatem ngày 15/8/1988, đoạn 20: AAS 80
năm 1988, 1703). Gương mẫu và hoạt động của giới nữ, thành phần, qua việc giữ
mình đồng trinh, tận hiến mình cho tình yêu Thiên Chúa và tha nhân, nhất là
chính người nghèo khổ, là một dấu hiệu phúc âm không thể thiếu được nơi những
dân tộc và những nền văn hoá mà nữ giới vẫn còn xa vời trên con đường tiến đến
tình trạng tiến bộ nhân bản và giải phóng con người. Tôi hy vọng là nhiều nữ
Kitô hữu trẻ sẽ được lôi kéo đến việc hiến thân mình cho Chúa Kitô, rồi sẽ lấy
được sức mạnh và niềm vui nơi việc thánh hiến của mình để làm chứng cho Người
nơi các dân tộc chưa nhận biết Người.
Tất Cả Mọi
Giáo Dân là Thừa Sai theo Phép Rửa
71-Các vị Giáo Hoàng mới đây đã nhấn mạnh đến tầm quan
trọng của vai trò giáo dân trong hoạt động truyền giáo (xem Ðức Piô XII, Thông
Ðiệp Evangelii Praecones: loc. cit., 510ff; Thông Ðiệp Fidei
Donum: loc. cit., 228ff; ÐTC Gioan XXIII, Thông Ðiệp Princeps
Pastorum: loc. cit., 855ff; ÐTC Phaolô VI, Tông HuấnEvangelii Nuntiandi,
70-73: loc. cit., 59-63). Trong Tông Huấn Christifideles Laici, Tôi
đã nói rõ ràng về việc Giáo Hội "vĩnh viễn truyền giáo để mang Phúc Âm đến
cho nhiều người -cả hằng triệu triệu người nam nữ -thành phần chưa biết Chúa
Kitô là Ðấng Cứu Chuộc của nhân loại" (đoạn 35: loc. cit., 457), cũng như
nói về trách nhiệm của người tín hữu giáo dân liên quan đến vấn đề này. Việc
truyền giáoad gentes là nhiệm vụ của toàn thể Dân Chúa. Nếu nền
tảng của một Giáo Hội mới cần phải có Thánh Thể, và bởi đó cũng cần đến thừa
tác vụ linh mục, thì hoạt động truyền giáo, một hoạt động được thực hiện bằng
nhiều cách thức khác nhau, là một công việc của tất cả mọi tín hữu Kitô giáo.
Ngay từ những thuở ban đầu của Kitô giáo, rõ ràng là
giáo dân -với tư cách cá nhân, gia đình hay toàn thể cộng đồng -đã chia sẻ vào
việc quảng bá đức tin. Ðức Giáo Hoàng Piô XII nhắc lại sự kiện này trong Thông
Ðiệp đầu tiên về các việc truyền giáo của ngài (xem Evangelii Praecones:
loc. cit., 510-514), trong đó ngài đã nêu lên một số trường hợp nơi những việc
truyền giáo của giáo dân. Trong những thời tân tiến hiện nay, việc tham gia chủ
động này của các nhà truyền giáo giáo dân nam nữ không hề thiếu. Chúng ta làm
sao quên được vai trò quan trọng do nữ giới nắm giữ, đó là vai trò làm việc của
họ trong gia đình, nơi học đường, nơi sinh hoạt chính trị, xã hội và văn hoá,
nhất là nơi việc họ dạy tín lý Kitô giáo? Thật vậy, chúng ta cần phải công nhận
-và cần phải tôn vinh -rằng có một số Giáo Hội đã được bắt nguồn từ hoạt động
của các nhà truyền giáo giáo dân nam nữ.
Công Ðồng Chung Vaticanô II đã xác nhận truyền thống
này, qua việc nói đến đặc tính truyền giáo của toàn thể Dân Chúa, nhất là nói
đến việc tông đồ giáo dân (xem Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen
Gentium, 17, 33ff), khi nhấn mạnh tới việc đóng góp đặc biệt cho hoạt động
truyền giáo mà họ được kêu gọi thực hiện (xem Sắc Lệnh về Hoạt Ðộng Truyền Giáo
của Giáo Hội Ad Gentes, 35-36, 41). Nhu cầu đối với tất cả mọi tín
hữu trong việc thông phần vào trách nhiệm này không phải chỉ là vấn đề làm cho
việc tông đồ tăng thêm hiệu năng; nó còn là một quyền lợi và là một nhiệm vụ
bởi phẩm vị thánh tẩy của họ, nhờ đó "tín hữu, về phần mình, tham dự vào
sứ vụ tam diện của Chúa Kitô trong vai trò làm Tư Tế, Ngôn Xứ và Vương Ðế"
(Tông Huấn Christifideles Laici, đoạn 14: loc. cit., 410). Bởi thế,
"họ bị bó buộc bởi nhiệm vụ chung và họ có quyền, theo tư cách cá nhân hay
đoàn thể, cố gắng để làm cho sứ điệp thần linh được tất cả mọi dân tộc trên thế
giới nhận biết và chấp nhận. Phận sự bó buộc này lại càng cần ở những hoàn cảnh
mà dân chúng chỉ có thể nghe thấy Phúc Âm và nhận biết Chúa Kitô qua một mình
họ mà thôi" (CIC, c. 225; xem Công Ðồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh
về Việc Tông Ðồ Giáo DânApostolicam Actuositatem, 6, 13). Ngoài ra, vì
tính cách trần thế của mình, họ được đặc biệt kêu gọi "để tìm kiếm Vương
Quốc của Thiên Chúa bằng việc dấn thân vào các việc làm trần thế và qui các
việc này về với ý muốn của Thiên Chúa" (Công Ðồng Chung Vaticanô II, Hiến
Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 31; xem CIC, c.
225, 2).
72-Lãnh vực mà người giáo dân hiện diện và chủ động như
là những nhà truyền giáo thì rất rộng rãi. "Lãnh vực riêng của họ... là
một thế giới rộng lớn và phức tạp về chính trị, xã hội và kinh tế... "
(ÐTC Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, 70: loc. cit., 60),
ở cấp độ địa phương, quốc gia và quốc tế. Trong Giáo Hội, đó là những loại dịch
vụ, phận vụ? tác vụ và đường lối truyền bá đời sống Kitô giáo. Tôi muốn nói đến
việc phát triển nhanh chóng những "phong trào giáo hội" đầy những
năng động truyền giáo, như là một phát triển mới mẻ xuất hiện tại nhiều Giáo
Hội vào những thời gian gần đây. Khi những phong trào này khiêm nhượng tìm cách
tham gia vào sinh hoạt của Giáo Hội địa phương và được vị Giám Mục cùng các
linh mục trong giáo phận đón nhận vào giáo phận cũng như vào cơ cấu của giáo
xứ, chúng là tiêu biểu cho tặng ân thực sự của Thiên Chúa, cho cả việc tân
truyền bá phúc âm hoá cũng như cho hoạt động truyền giáo xứng danh của mình.
Bởi thế, Tôi kêu gọi là những phong trào này phải được quảng bá, và phải được
sử dụng trong việc làm phát sinh một nghị lực tươi mới, nhất là nơi giới trẻ,
cho đời sống Kitô hữu, cũng như cho việc truyền bá phúc âm hoá, theo cái nhìn
đa diện về những đường lối mà Kitô hữu có thể bắt tay hành động và biểu lộ mình
ra.
Trong lãnh vực hoạt động truyền giáo,việc tông đồ giáo
dân có những hình thức khác nhau cần phải được tôn trọng vì bản chất và mục
đích của chúng. Các hội đoàn truyền giáo giáo dân, các hiệp hội Kitô hữu thiện
nguyện quốc tế, các phong trào, nhóm hội và tổ chức thân hữu thuộc giáo hội đủ
loại khác nhau -tất cả mọi tổ chức này cần phải được đóng góp vào việc truyền
giáo ad gentes, với tư cách là những cộng hoạt viên với Giáo Hội
địa phương. Nhờ đó, việc phát triển của người tín hữu trưởng thành và có trách
nhiệm mới được bảo tồn, người tín hữu đang được các Giáo Hội trẻ công nhận là
"một yếu tố thiết yếu và không thể phủ nhận trong việcplantatio
Ecclesiae" (Tông Huấn Christifideles Laici, 35: loc. cit.,
458).
Công Việc
của Giáo Lý Viên
và các Thừa Tác Vụ khác nhau
và các Thừa Tác Vụ khác nhau
73-Trong số thành phần giáo dân trở nên những nhà truyền
bá phúc âm hoá, thì các giáo lý viên chiếm một địa vị cao quí. Sắc Lệnh về Hoạt
Ðộng Truyền Giáo của Giáo Hội nói về họ như là "đạo binh giáo lý viên, cả
nam lẫn nữ, đáng ca ngợi, thành phần góp phần rất nhiều vào công việc truyền
giáo nơi các dân nước. Ðược thấm nhiễm tinh thần tông đồ, họ thực hiện việc
đóng góp chuyên biệt và hết sức cần thiết cho công cuộc quảng bá đức tin cũng
như cho Giáo Hội, bằng những nỗ lực hết mình của họ" (đoạn 17). Chính vì
lý do đó, các Giáo Hội được thiết lập lâu đời, dấn thân cho việc tân truyền bá
phúc âm hoá, đã tăng phát con số những giáo lý viên cùng đẩy mạnh hoạt động
giáo lý. Thế nhưng, "chữ ?giáo lý viên? trước hết thuộc về những giáo lý
viên ở miền đất truyền giáo... Những Giáo Hội đang nở hoa hôm nay đây đã không
được dựng xây lên nếu không có mặt họ" (Tông Huấn Catechesi
Tradendae, 66: loc. cit., 1331).
Cho dù có nới rộng các việc đóng góp của người giáo
dân, cả ở trong lẫn ngoài Giáo Hội đi nữa, thì vẫn luôn luôn cần đến thừa tác
vụ giáo lý viên, một thừa tác vụ có những đặc tính riêng của mình. Giáo lý viên
là những chuyên viên, những chứng nhân trực tiếp và là những nhà truyền bá phúc
âm hoá không thể thay thế được, thành phần, như Tôi vẫn thường phát biểu và cảm
nghiệm thấy qua các cuộc hành trình truyền giáo của mình, cho thấy sức mạnh căn
bản của các cộng đồng Kitô hữu, nhất là nơi các Giáo Hội trẻ. Giáo Luật mới đã
công nhận những việc làm, phẩm chất và điều kiện các giáo lý viên (xem c. 785,
1).
Tuy nhiên, cũng không được quên rằng, công viê? của
các giáo lý viên đang càng ngày càng trở nên khó khăn và khẩn thiết hơn, bởi
những đổi thay về giáo hội cũng như về xã hội. Những gì Công Ðồng gợi ý vẫn còn
hiệu lực cho tới ngày nay, đó là gợi ý huấn luyện cẩn thận về tín lý và sư
phạm, gợi ý tiếp tục canh tân về tinh thần và về việc tông đồ, cũng như gợi ý
cần phải cung cấp cho giáo lý viên "một tiêu chuẩn sống và an sinh xã hội
xứng hợp" (Sắc Lệnh về Hoạt Ðộng Truyền Giáo của Giáo HộiAd Gentes,
17). Còn một vấn đề quan trọng nữa, đó là việc nỗ lực thiết lập và nâng đỡ
những trường dạy cho các giáo lý viên, được Hội Ðồng Giám Mục chuẩn nhận và cấp
bằng được sau này chính thức công nhận (xem Hội Nghị Thánh Bộ về Việc Truyền Bá
Phúc Âm Hoá Các Dân Tộc năm 1969, về các giáo lý viên và các "Hướng
Dẫn" liên hệ ban hành 4/1970: Bibliographia Missionaria 34
năm 1970, 197-212 và S.C. de Propaganda Fide Memoria Rerum, III/2 năm
1976, 821-831).
74-Ngoài các giáo lý viên ra, cũng cần phải đề cập tới
những đường lối khác trong việc phục vụ Giáo Hội và sứ mệnh truyền giáo của
Giáo Hội; tức là nói đến các nhân viên khác của Giáo Hội, như những người điều
khiển cầu nguyện, thánh ca và phụng vụ; những người làm đầu các cộng đồng giáo
hội cơ bản và các nhóm học hỏi Thánh Kinh; những người lo các việc bác ái;
những quản trị viên điều hành các nguồn lợi của Giáo Hội; những lãnh đạo viên
trong các hình thức tông đồ khác; các thày cô dạy về tôn giáo ở các trường học.
Tất cả mọi phần tử giáo dân phải hiến một phần thời giờ của mình cho Giáo Hội,
bằng việc sống đức tin của mình một cách chân chính.
Thánh Bộ
Truyền Bá Phúc Âm Hoá cho Các Dân Nước
và Các Cơ Cấu lo Việc Hoạt Ðộng Truyền Giáo
và Các Cơ Cấu lo Việc Hoạt Ðộng Truyền Giáo
75-Các người điều hành và các nhân viên hoạt động mục vụ
truyền giáo phải cảm nhận được việc hiệp nhất của họ trong mối hiệp thông làm
nên đặc tính của Nhiệm Thể Giáo Hội. Chúa Kitô đã cầu nguyện cho điều này ở Bữa
Tiệc Ly rằng: "Như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha, để họ cũng được
ở trong chúng ta, cho thế giới tin rằng Cha đã sai Con" (Jn 17:21). Hoa
trái của hoạt động truyền giáo chỉ được tìm thấy nơi mối hiệp thông này thôi.
Thế nhưng, vì Giáo Hội cũng là chính mối hiệp thông,
một hiệp thông hữu hình và có tổ chức, nên sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội
cũng cần phải được thống nhất theo hình thức và cơ cấu giữa những trách nhiệm
và phận vụ dự phần khác nhau, đến nỗi, tất cả mọi phần tử "có thể cống
hiến sức lực của mình cho việc xây dựng Giáo Hội một cách hòa hợp" (Công
Ðồng Chung Vaticanô II, (Sắc Lệnh về Hoạt Ðộng Truyền Giáo của Giáo Hội Ad
Gentes, 28).
Thánh Bộ phụ trách hoạt động truyền giáo có trách
nhiệm "hướng dẫn và điều hợp khắp thế giới việc truyền bá phúc âm hoá các
dân tộc cũng như việc hợp tác truyền giáo, liên quan tương xứng với thẩm quyền
của Thánh Bộ về Các Giáo Hội Ðông Phương" (Tông Hiến Pastor Bonus,
ngày 28/6/1988, 85: AAS 80 năm 1988, 881; xem Công Ðồng Chung Vaticanô II, Sắc
Lệnh về Hoạt Ðộng Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, 29). Bởi thế,
công việc của Thánh Bộ phụ trách hoạt động truyền giáo là "tuyển mộ các
nhà truyền giáo và phân phối họ tùy theo nhu cầu cần hơn ở các vùng khác
nhau..., phác họa một chương trình hoạt động ngăn nắp, ban hành các qui tắc và
chỉ dẫn cùng với các nguyên tắc hợp với công việc truyền bá phúc âm hoá, và
nâng đỡ những giai đoạn đầu trong việc làm của họ" (xem Công Ðồng Chung
Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt Ðộng Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes,
29; xem ÐTC Gioan Phaolô II, Tông Hiến Pastor Bonus, 86: loc. cit.,
882). Tôi muốn xác nhận những chỉ dẫn khôn ngoan này. Ðể tái khai mào cho việc
truyền giáo ad gentes, cần phải có một trung tâm quảng bá, hướng
dẫn và điều hợp, tức là, cần phải có Thánh Bộ về Việc Truyền Bá Phúc Âm Hoá Các
Dân Tộc. Tôi xin mời Các Hội Ðồng Giám Mục cùng các cơ cấu khác nhau của những
hội đồng này, các vị Bề Trên Tổng Quyền của các Dòng Tu, Hội Dòng và Tu Hội,
cũng như các tổ chức giáo dân tham gia hoạt động truyền giáo, hãy trung thành
cộng tác với Phân Bộ này, một Phân Bộ có thẩm quyền cần thiết trong việc phác
họa và hướng dẫn cùng phối hợp hoạt động truyền giáo khắp thế giới.
Thánh Bộ này, một Thánh Bộ có một lịch sử dài rất nổi
nang, được kêu gọi để đóng một vai trò trọng yếu liên quan đến việc tìm hiểu và
phác họa các chương trình hoạt động mà Giáo Hội cần có để nhất định hướng tới
sứ mệnh truyền giáo bằng nhiều hình thức khác nhau. Ðể đạt được mục đích ấy,
Thánh Bộ này phải giữ liên hệ chặt chẽ với các Phân Bộ khác của Tòa Thánh, với
các Giáo Hội địa phương cũng như các lực lượng truyền giáo khác. Theo giáo hội
học về việc hiệp thông liên quan đến vấn đề toàn thể Giáo Hội là truyền giáo,
cũng như đến vấn đề không thể thiếu được các ơn gọi và các tổ chức chuyên biệt
khác nhau lo hoạt động truyền giáo ad gentes, thì vai trò hướng dẫn
và điều hợp của Thánh Bộ về Việc Truyền Bá Phúc Âm Hoá Các Dân Tộc rất là quan
trọng, để làm sao có thể kết hợp nỗ lực trong việc đối phó với những vấn đề khó
khăn ai cũng quan tâm tới, tùy theo thẩm quyền xứng hợp riêng của mỗi chức phận
và cơ cấu.
76-Các Hội Ðồng Giám Mục và các nhóm khác nhau của các
hội đồng này rất cần phải hướng dẫn và điều hợp hoạt động truyền giáo theo cấp
quốc gia và cấp miền. Công Ðồng xin họ "hãy bàn luận với nhau trong việc
giải quyết những vấn đề quan trọng và những rắc rối khẩn trương, tuy nhiên, vẫn
phải để ý tới những cái khác nhau ở địa phương" (Sắc Lệnh về Hoạt Ðộng
Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, 31), và hãy cứu xét đến vấn đề
phức tạp trong việc hội nhập văn hoá. Thật vậy, hoạt động rộng lớn và điều hòa
đang được diễn tiến ở lãnh vực này đã mang lại kết quả trông thấy. Ðây là một
hoạt động phải được tăng tiến và điều hợp khá hơn nữa với hoạt động của các
phần vụ khác của cùng một Hội Ðồng Giám Mục, để mối quan tâm truyền giáo không
để cho một phân bộ hay cơ chế duy nhất nào phụ trách, mà là được tất cả cùng
nhau chia sẻ.
Các phân bộ và tổ chức tham gia vào hoạt động truyền
giáo phải kết hợp sức lực và sáng kiến mỗi khi có cơ hội. Hội Ðồng Các Bề Trên
Tổng Quyền phải có cùng một quan tâm theo phạm vi của mình, mà vẫn giữ liên hệ
với các Hội Ðồng Giám Mục, theo những chỉ dẫn và qui tắc được qui định (xem
ibid. 33), cũng như bàn hỏi với các ủy ban khác nhau. Nên có cả các cuô? họp và
các hình thức cộng tác khác giữa những tổ chức truyền giáo với nhau, cả trong vấn
đề huấn luyện lẫn học hỏi (xem Công Ðồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt
Ðộng Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, 29; xem ÐTC Phaolô VI,
Tông Thư Motu Prorio Ecclesiae Santae, III, 22: loc. cit., 787).
VII
VIỆC CỘNG TÁC TRONG HOẠT ÐỘNG TRUYỀN GIÁO
Vì là phần thể của Giáo hội theo Phép Rửa mà tất cả
mọi Kitô hữu đều chia sẻ trách nhiệm vào hoạt động truyền giáo. "Việc cộng
tác truyền giáo" là lời diễn tả được dùng để nói lên việc các cộng đồng và
Kitô hữu chia sẻ với nhau nơi quyền lợi và nhiệm vụ truyền giáo này.
Việc cộng tác truyền giáo được bắt nguồn và sống động,
trước hết, nơi mối hiệp nhất riêng tư với Chúa Kitô. Chỉ khi nào chúng ta được
nên một với Người, như cành nho dính liền với cây nho (x. Jn 15:5), chúng ta
mới có thể sinh hoa trái tốt tươi. Bằng đời sống thánh thiện, hết mọi Kitô hữu
có thể trở nên phần sai trái nơi việc truyền giáo của Giáo Hội. Công Ðồng Chung
Vaticanô II đã mời gọi tất cả mọi người hãy thực hiện "việc canh tân nội
tâm sâu xa, để nhờ nhận thức sống động được trách nhiệm riêng của mình trong
việc quảng bá Phúc Âm, họ có thể góp phần của mình vào việc truyền giáo nơi các
dân nước" (Công Ðồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt Ðộng Truyền Giáo
của Giáo Hội Ad Gentes, 35; xem CIC, cc. 211, 781).
Chia sẻ thực hiện sứ vụ truyền giáo đại đồng, bởi thế,
không bị giới hạn vào một số những hoạt động chuyên biệt, nhưng là một dấu hiệu
trưởng thành trong đức tin cũng như trong đời sống Kitô hữu sinh hoa kết trái.
Như thế, các tín hữu nói riêng mới vươn đức ái của mình ra cho thấy mối quan
tâm đối với cả những kẻ ở xa cũng như ở gần. Họ cầu nguyện cho các việc truyền
giáo và cho các ơn gọi truyền giáo. Họ giúp các nhà truyền giáo và lấy làm phấn
khởi làm theo các công việc của các vị ấy. Khi các nhà truyền giáo trở lại, họ
tiếp đón các vị bằng một niềm vui giống như niềm vui của các cộng đồng Kitô hữu
tiên khởi, khi các cộng đồng này nghe các Tông Ðồ thuật lại những sự lạ lùng
Thiên Chúa đã làm qua việc các Tông Ðồ giảng dạy (x. Acts 14:27).
Cầu Nguyện
và Hy Sinh cho Các Nhà Thừa Sai
78-Trong số những hình thức chia sẻ này, đầu tiên là việc
cộng tác về phần thiêng liêng qua lời cầu nguyện, qua hy sinh và qua chứng từ
của đời sống Kitô hữu. Việc cầu nguyện phải kèm theo cuộc hành trình của các
nhà truyền giáo, để việc loan truyền Lời Chúa được tác hiệu theo ơn Chúa. Trong
các Bức Thư của mình, Thánh Phaolô thường xin tín hữu cầu nguyện cho ngài, để
ngài có thể loan truyền Phúc Âm một cách tin tưởng và vững vàng. Cầu nguyện cần
phải được đi kèm với hy sinh. Giá trị cứu chuộc của đau khổ, vì yêu mến chấp
nhận và dâng lên cho Thiên Chúa, bắt nguồn từ hiến tế của chính Chúa Kitô, Ðấng
kêu gọi các phần thể thuộc Nhiệm Thể của Người thông phần vào các khổ đau của
Người, để hoàn tất những đau khổ ấy nơi xác thịt của họ (x. Col 1:24). Việc hy
sinh của các nhà truyền giáo phải được chia sẻ và kèm theo bằng các hy sinh của
tất cả mọi tín hữu. Do đó, Tôi hết sức muốn những ai lo việc mục vụ chăm sóc
bệnh nhân hãy dạy cho họ biết về hiệu năng của đau khổ, và khuyến khích họ hãy
hiến dâng những đau khổ của họ lên Thiên Chúa để cầu cho các nhà truyền giáo.
Bằng việc hiến dâng như vậy, chính bệnh nhân trở nên những nhà truyền giáo, như
các phong trào do họ lập nên, hay được lập nên cho thành phần của họ, nhấn
mạnh. Lễ Trọng Kính Chúa Thánh Thần Hiện Xuống -thời điểm mở màn cho việc
truyền giáo của Giáo Hội -nơi một số cộng đồng, được cử hành như là một
"Ngày Chịu Ðựng Khổ Ðau để cầu cho Các Việc Truyền Giáo".
"Này
con đây, Lạy Chúa!
Con sẵn sàng! Xin hãy sai con!"
Con sẵn sàng! Xin hãy sai con!"
79-Việc cộng tác truyền giáo được nói lên, trước hết,
bằng việc cổ võ các ơn gọi truyền giáo. Dù có công nhận tính cách hiệu năng của
các đường lối khác nhau để tham gia vào hoạt động truyền giáo, cũng cần phải
tái xác nhận rằng, việc hoàn toàn dấn thân trọn đời cho công cuộc của
các ngành truyền giáo là việc đứng hàng đầu, nhất là dấn thân trong các Tu
Hội và Hội Dòng truyền giáo. Việc cổ võ các ơn gọi như vậy là tâm điểm của việc
cộng tác truyền giáo. Việc rao giảng Phúc Âm đòi phải có các nhà rao giảng; mùa
màng cần thợ gặt. Việc truyền giáo được thực hiện, trước hết, bởi những con
người nam nữ tận hiến đời mình cho công cuộc của Phúc Âm, và là những con người
sẵn sàng mang ơn cứu độ ra đi đến khắp nơi trên thế giới.
Tôi muốn nhắc lại để kêu gọi việc quan tâm đến
các ơn gọi truyền giáo. Nhận thức được trách nhiệm chung của Kitô hữu trong
việc góp phần vào hoạt động truyền giáo, cũng như vào việc phát triển các dân
tộc nghèo khổ hơn mình, chúng ta cần phải thắc mắc hỏi mình rằng, ở một vài xứ
sở, trong khi việc đóng góp về tiền bạc tăng lên, thì các ơn gọi truyền giáo,
những ơn gọi này mới là mức đo lường thực sự của việc tự hy hiến bản thân cho
anh chị em của mình, lại đang có nguy cơ mất đi. Các ơn gọi làm linh mục và
sống đời tận hiến là một dấu hiệu chắc chắn nói lên sức sống của một Giáo Hội.
80-Khi nghĩ đến vần đề hệ trọng này, Tôi hết lòng tin
tưởng và tha thiết kêu gọi các gia đình và giới trẻ. Các gia đình, nhất là các
cha mẹ, cần ý thức rằng, họ phải "hiến dâng phần đóng góp đặc biệt cho lợi
ích truyền giáo của Giáo Hội, bằng việc nuôi dưỡng các ơn kêu gọi truyền giáo
nơi con cái nam nữ của họ" (Tông HuấnFamiliaris Consortio, 54: loc.
cit., 147).
Ðời sống nguyện cầu thiết tha, cảm thức đích thực
trong việc phục vụ tha nhân của mình, và việc tham gia nhiệt thành vào các hoạt
động trong Giáo Hội, cống hiến các gia đình những điều kiện thuận lợi gieo mầm
ơn gọi nơi giới trẻ. Khi cha mẹ sẵn sàng để cho một trong những đứa con của
mình ra đi truyền giáo, khi họ xin ơn này nơi Chúa, Ngài sẽ ban cho họ vui mừng
vào ngày có đứa con trai hay con gái của họ nghe thấy Chúa gọi theo Ngài.
Tôi xin chính giới trẻ hãy lắng nghe lời Chúa Kitô khi
Người nói với họ những gì Người đã từng nói với Simon Phêrô và Anrê ở bờ hồ:
"Hãy theo Tôi, Tôi sẽ làm cho các anh thành những tay đánh cá người"
(Mt 4:19). Chớ gì họ can đảm đáp lại như tiên tri Isaia đã làm: "Này con
đây, lạy Chúa! Con sẵn sàng rồi! Xin hãy sai con đi!" (x. Is 6:8). Họ sẽ
có một cuộc sống tuyệt vời trước mắt, và họ sẽ nếm được niềm vui đích thực
trong việc loan truyền "Tin Mừng" cho anh chị em là những người họ sẽ
dẫn đi trên con đường cứu độ.
"Cho đi hơn nhận
lãnh" (Acts 20:35)
81-Các nhu cầu về vật chất và tài chính cho những việc truyền giáo thì nhiều:
không phải ở tại việc thiết lập một Giáo Hội với cơ cấu tối thiểu (nguyện
đường, trường sở cho các giáo lý viên và chủng sinh, nhà cửa), mà còn để hỗ trợ
cho các việc bác ái, giáo dục và tiến bộ của con người -một lãnh vực hoạt động
rộng lớn, nhất là nơi các xứ nghèo. Giáo Hội truyền giáo cho đi những gì Giáo
Hội nhận được, và phân phối cho kẻ nghèo các của cải vật chất do các con cái
nam nữ giầu có về vật chất của Giáo Hội cúng cho Giáo Hội. Ở đây, Tôi muốn cám
ơn tất cả những ai đã hy sinh và đóng góp vào công cuộc của những việc truyền
giáo. Các hy sinh và chia sẻ của họ không thể nào thiếu được trong việc xây
dựng Giáo Hội cũng như trong việc tỏ lòng yêu thương.
Trong vấn đề
trợ giúp về vật chất, cần phải để ý tới tinh thần làm việc dâng cúng. Ðối với
vấn đề này, chúng ta phải xét lại lối sống của mình: các việc truyền giáo chẳng
những xin đóng góp mà còn xin chia sẻ vào công việc giảng dạy và bác ái đối với
kẻ nghèo nữa. Tất cả những gì chúng ta nhận được nơi Thiên Chúa -chính sự sống
cũng như của cải vật chất -không thuộc về chúng ta mà được ban cho chúng ta để
chúng ta sử dụng. Lòng quảng đại cho đi bao giờ cũng phải được đức tin hướng
dẫn và tác động: bấy giờ chúng ta mới thực sự có phúc khi cho đi hơn là nhận
lãnh.
Ngày Truyền
Giáo Thế Giới, một ngày muốn đề cao nhận thức về các việc
truyền giáo, cũng như để quyên tiền cho các việc truyền giáo, là một ngày quan
trọng trong đời sống Giáo Hội, vì nó dạy cách cho đi, như một lễ vật dâng lên
Thiên Chúa,trong việc cử hành Thánh Thể và cho tất
cả mọi việc truyền giáo trên thế giới.
Những Hình Thức Mới trong Việc
Cộng Tác Truyền Giáo
82-Ngày nay, việc cộng tác truyền giáo bao gồm những hình thức mới, chẳng
những dưới hình thức trợ giúp về kinh tế, mà còn dưới hình thức trực tiếp tham
gia nữa. Những hoàn cảnh mới liên quan tới hiện tượng di chuyển đòi Kitô hữu
phải có một tinh thần hoạt động truyền giáo đích thực.
Trào lưu du
lịch khắp thế giới nay đã trở nên một hiện tượng ào ạt. Hiện tượng này là một
phát triển tốt, nếu các người đi du lịch giữ được thái độ tôn trọng đối với vấn
đề trao đổi để thăng tiến về văn hoá và ước muốn làm như vậy, bằng việc tìm
cách tiếp xúc với nhau, chứ không phải để phô trương và phung phí. Phần Kitô
hữu, họ cần nhận thức được, trước hết, phận sự buộc họ phải luôn luôn làm chứng
cho đức tin và tình yêu Chúa Kitô. Kiến thức trực tiếp về cuộc sống truyền giáo
cũng như về các cộng đồng Kitô giáo mới cũng có thể là một kinh nghiệm thăng
tiến bản thân và có thể làm cho đức tin của mình thêm vững mạnh. Ðến thăm các
địa sở truyền giáo là việc nên làm, nhất là đối với thành phần giới trẻ đến đó
để phục vụ cũng như để lấy thêm kinh nghiệm dồi dào hơn cho đời sống Kitô hữu.
Hiện nay, vì
các lý do công ăn việc làm, đã mang nhiều Kitô hữu từ các cộng đồng trẻ đến
những vùng Kitô giáo chưa được biết tới, có những lúc còn bị cấm cản hay bắt bớ
nữa. Cũng thế, đối với trường hợp của những phần tử tín hữu thuộc các xứ Kitô
giáo lâu đời đến làm việc một thời gian ở những đất nước ngoài Kitô giáo. Những
trường hợp này thật sự là một cơ hội sống đức tin và làm chứng đức tin. Trong
những thế kỷ đầu, Kitô giáo phát triển là vì Kitô hữu, khi di chuyển hay định
cư ở những vùng Chúa Kitô chưa được loan báo, đã can đảm làm chứng cho đức tin
của mình và đã thành lập các cộng đoàn đầu tiên ở đó.
Ðông hơn nữa
là những người công dân ở các xứ truyền giáo, và những tín đồ thuộc các tôn
giáo ngoài Kitô giáo, đến định cư ở các nước khác để học hành hay làm việc,
hoặc bị buộc phải làm như thế vì tình trạng chính trị hay kinh tế tại đất nước
của họ. Việc hiện diện của những người anh chị em này tại các xứ sở theo Kitô
giáo lâu đời là một thách đố cho các cộng đồng giáo hội, và là một kích thích
cho việc tiếp đãi, đối thoại, phục vụ, chia sẻ, minh chứng và trực tiếp loan
báo. Nơi những xứ sở Kitô giáo, các cộng đồng và các nhóm về văn hoá cũng đang
hình thành những gì cần cho việc truyền giáo ad gentes, và các Giáo
Hội địa phương, được hợp tác của những người di dân đến từ các xứ sở của họ,
cũng như của những nhà truyền giáo hồi hương, phải hết sức đáp ứng đối với các
trường hợp này.
Việc cộng
tác truyền giáo cũng có thể bao gồm cả các nhà lãnh đạo về chính trị, kinh tế,
văn hoá và phóng sự, cũng như những chuyên gia của các cơ chế quốc tế khác nhau
nữa. Trong thế giới tân tiến hiện nay, vấn đề phân định các ranh giới về địa dư
hay văn hoá càng trở nên khó khăn hơn. Tình trạng liên thuộc giữa con người với
nhau đang tăng lên, và sự kiện này trở thành một kích thích cho chứng từ Kitô
giáo cũng như cho việc truyền bá phúc âm hoá.
Cổ Ðộng và Huấn Luyện Truyền
Giáo
trong Thành Phần Dân Chúa
trong Thành Phần Dân Chúa
83-Việc huấn luyện truyền giáo là công việc của Giáo Hội địa phương, được
tiếp tay bởi các nhà truyền giáo và Tu Hội của họ, cũng như được tiếp tay bởi
người đến từ các Giáo Hội trẻ. Công việc này không được coi như là một việc nổi
nang bề ngoài mà là việc chính đối với đời sống Kitô hữu. Thậm chí đối với cả
việc "tân truyền bá phúc âm hoá" nơi các xứ Kitô giáo thì đề tài về
những việc truyền giáo cũng cho thấy là rất hữu ích: chứng từ của các nhà
truyền giáo vẫn là một lời kêu gọi đối với cả thành phần tín hữu không hành đạo
lẫn thành phần không tin đạo, chứng từ này truyền đạt các giá trị Kitô giáo.
Bởi thế, các Giáo Hội riêng phải làm cho vấn đề phát động những việc truyền
giáo thành yếu tố chính trong hoạt động mục vụ thông thường ở các giáo xứ, hội
đoàn và nhóm hội, nhất là ở các nhóm giới trẻ.
Khi nhắm đến
mục đích này, cần phải quảng bá chi tiết qua các việc phát hành cũng như qua
các phương tiện trợ thính thị về truyền giáo. Những phương tiện này đóng một
vai trò quan trọng, trong việc phổ biến sinh hoạt của Giáo Hội hoàn vũ, cũng
như trong việc chia sẻ những kinh nghiệm của các nhà truyền giáo và của các
Giáo Hội địa phương họ hoạt động. Nơi những Giáo Hội mới mẻ vẫn chưa có phương
tiện in ấn, hay các phương tiện khác trong tay, thì các Tu Hội Truyền Giáo cần
phải giúp nhân lực và vật lực cho những công việc làm này.
Một việc huấn
luyện như thế được ủy thác cho các vị linh mục và cộng sự viên của họ, cho các
nhà giáo dục và giáo sư, cũng như cho các nhà thần học, nhất là những người dạy
trong các chủng viện và các trung tâm dành cho giáo dân. Việc huấn luyện về
thần học không thể và không được bỏ qua việc truyền giáo đại đồng của Giáo Hội,
việc đại kết, việc học hỏi các tôn giáo lớn khác và khoa truyền giáo. Tôi đề
nghị là những môn học như vậy phải được dạy đặc biệt trong các chủng viện cũng
như trong các nhà huấn luyện cho Tu Sĩ nam nữ, những môn học cần có một số linh
mục hay học viên chuyên môn về các ngành truyền giáo học khác nhau.
Các hoạt
động nhắm đến vấn đề phát động chú trọng đến những việc truyền giáo bao giờ
cũng phải được hướng về các mục tiêu đặc biệt này; tức là mục tiêu thông báo và
huấn luyện Dân Chúa trong việc tham phần vào sứ vụ truyền giáo đại đồng của
Giáo Hội, mục tiêu cổ võ các ơn gọi ad gentes và mục tiêu
khuyến khích cộng tác vào việc truyền bá phúc âm hoá. Thật là không đúng khi
trình bày một hình ảnh thiếu hụt về hoạt động truyền giáo, như thể nó chỉ hoàn
toàn nhắm vào việc giúp đỡ kẻ nghèo, vào việc góp phần giải phóng kẻ bị đàn áp,
vào việc đề cao phát triển hay bảo vệ quyền lợi của con người. Giáo Hội truyền
giáo nhất định bao gồm cả những công việc hàng đầu này, thế nhưng, công việc
chính yếu của Giáo Hội nằm ở chỗ khác, ở chỗ thành phần nghèo khổ đói khát
Thiên Chúa, chứ không phải đói khát bánh ăn và tự do vậy thôi. Hoạt động truyền
giáo trước hết phải làm chứng cho và loan truyền ơn cứu độ trong Chúa Kitô,
cùng với việc thiết lập các Giáo Hội địa phương là nơi sau này trở thành phương
tiện giải phóng đúng nghĩa.
Trách Nhiệm Chính
của Các Hội Truyền Giáo thuộc Tòa Thánh
của Các Hội Truyền Giáo thuộc Tòa Thánh
84-Vai trò dẫn đầu trong việc phát động này là của Các Hội Truyền Giáo
thuộc Tòa Thánh, như Tôi thường cho thấy trong các Sứ Ðiệp Tôi gửi cho Ngày
Truyền Giáo Thế Giới. Bốn Hội này -Hội Truyền Bá Ðức Tin, Hội Thánh Phêrô Tông
Ðồ, Hội Trẻ Em Thánh và Hội Hợp Ðoàn Thừa Sai -có cùng một mục đích trong việc
nuôi dưỡng tinh thần truyền giáo hoàn vũ nơi Dân Chúa. Hội Hợp Ðoàn Thừa sai có
mục đích trực tiếp và đặc biệt phát động ý thức truyền giáo và huấn luyện các
linh mục và tu sĩ nam nữ trở nên thành phần cung cấp kiến thức và huấn luyện ở
tại các cộng đồng Kitô hữu. Ngoài ra, Hội Hợp Ðoàn Thừa Sai còn tìm cách cổ
động các Hội khác, như "linh hồn" của các hội ấy (xem ÐTC Phaolô
VI, Graves et Increscentes, ngày 5/9/1966: AAS 58 năm 1966,
750-756). "Ðây phải là khẩu hiệu của chúng ta: Tất cả mọi Giáo Hội phải
hiệp nhất cho việc hoán cải toàn thể thế giới" (P. Manna, Le
nostre "Chiese" e la Propagazione del Vangelo, Trento la Ducenta,
1952, p. 35).
Vì hưởng đặc
ân của Giáo Hoàng và Giám Mục Ðoàn, những Hội này, cả ở trong phạm vi của các
Giáo Hội địa phương, cũng thực sự "đứng đầu... vì các hội ấy là phương
tiện giúp người Công Giáo, ngay từ hồi còn nhỏ, được thấm nhiễm tinh thần
truyền giáo đại đồng và truyền giáo chân truyền; các hội ấy cũng là phương tiện
bảo đảm cho việc lạc quyên tốt đẹp vì lợi ích của tất cả những việc truyền giáo
theo nhu cầu của mỗi một việc" (Công Ðồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về
Hoạt Ðộng Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, 38). Mục đích khác
nữa của các Hội Truyền Giáo là cổ động các ơn gọi trọn đời ad
gentes, cả ở các Giáo Hội cũ lẫn Giáo Hội mới. Tôi tha thiết muốn thấy
việc các Hội Truyền Giáo này càng ngày càng cổ động phát triển theo chiều hướng
ấy.
Về phương
diện hoạt động của mình, những Hội này lệ thuộc vào phạm vi hoàn cầu của Thánh
Bộ Phụ Trách Việc Truyền Bá Phúc Âm Hoá Các Dân Tộc; ở cấp độ địa phương, các
hội ấy tùy thuộc vào Hội Ðồng Các Giám Mục cũng như tùy thuộc vào Giám Mục của
từng Giáo Hội, trong việc hợp tác với các trung tâm cổ động đang hoạt động. Các
hội ấy mang đến cho thế giới Công Giáo tinh thần đại đồng và tinh thần phục vụ
đối với việc truyền giáo của Giáo Hội, mà không có tinh thần này cũng không có
việc cộng tác thật sự.
Chẳng Những Cho Việc Truyền
Giáo
mà còn Nhận từ Việc này nữa
mà còn Nhận từ Việc này nữa
85-Việc hợp tác trong hoạt động truyền giáo không có nghĩa là cho đi mà không
nhận lãnh. Tất cả mọi Giáo Hội riêng, cả mới lẫn cũ, đều được kêu gọi để cho đi
và nhận lãnh theo tương quan của việc truyền giáo đại đồng, không Giáo Hội nào
được khép mình lại trước những nhu cầu của các Giáo Hội khác. Công Ðồng viết:
"Bởi... tính chất công giáo, các phần riêng mang các tặng ân của mình đến
cho các phần khác và cho toàn thể Giáo Hội, để làm cho toàn khối và từng phần
riêng lớn lên hơn nữa, qua việc tất cả truyền thông cho nhau, cũng như qua việc
liên kết nỗ lực hướng đến mối hiệp nhất toàn vẹn... Giữa những phần khác nhau
trong Giáo Hội có những liên hệ hiệp thông sâu xa liên quan đến những kho tàng
thiêng liêng, đến các nhân viên tông đồ và đến việc trợ giúp về vật chất"
(Hiến Chế Tín Lý về Giáo HộiLumen Gentium, đoạn 13).
Tôi kêu gọi
tất cả mọi Giáo Hội, Giám Mục, linh mục, tu sĩ và các phần tử giáo dân, hãy
hướng về tính cách đại đồng của Giáo Hội, và hãy tránh hết mọi hình thức
khuynh hướng thiển cận chỉ biết lấy mình hay độc quyền, hoặc những cảm giác tự
mãn. Các Giáo Hô? địa phương, mặc dầu được ăn sâu vào dân tộc và văn hoá riêng
của mình, cũng phải luôn luôn giữ được cảm thức sống động về tính cách đại đồng
của đức tin, về việc cho đi và nhận lãnh các tặng ân thiêng liêng, về các kinh
nghiệm của hoạt động mục vụ trong việc truyền bá phúc âm hoá và việc loan báo lúc
ban đầu, cũng như về nhân lực cho việc tông đồ và các nguồn lợi vật chất.
Khuynh hướng
muốn trở nên biệt lập có thể là một khuynh hướng mãnh liệt. Các Giáo Hội cũ,
liên quan đến việc tân truyền bá phúc âm hoá, có thể nghĩ rằng việc truyền giáo
của mình hiện nay ở tại phần đất của mình, do đó, các Giáo Hội này có thể bị
nhụt đi nhuệ khí đối với thế giới ngoài Kitô giáo, bất đắc dĩ để cho các ơn gọi
đến với các Tu Hội truyền giáo, các Hội Dòng Tu Sĩ hay các Giáo Hội riêng khác.
Thế nhưng, chính nhờ việc cho đi một cách quảng đại những gì chúng ta có mà
chúng ta sẽ nhận được. Những Giáo Hội trẻ, có nhiều nơi được chúc phúc bởi có
dồi dào ơn gọi, đã ở trong vị thế sai các linh mục và Tu Sĩ nam nữ tới các Giáo
Hội lâu đời hơn.
Ngoài ra,
các Giáo Hội trẻ cũng đang quan tâm đến căn tính riêng của mình, đến việc hội
nhập văn hoá, cũng như đến việc tự do phát triển thoải mái mà không bị ảnh
hưởng bởi ngoại bang, để rồi cuối cùng họ có thể đóng cửa không có các nhà
truyền giáo tới nữa. Với những Giáo Hội này, Tôi xin nói là: Ðừng tự cô lập lấy
mình; hãy sẵn sàng tiếp nhận các nhà truyền giáo, cùng sự nâng đỡ của các Giáo
Hội khác, và cũng làm như vậy cho các Giáo Hội khắp nơi. Chính vì các vấn đề
liên quan đến Giáo Hội của mình mới cần tới việc liên tục liên hệ với các anh
chị em mình trong đức tin. Bằng mọi phương tiện hợp pháp, hãy tìm cách bảo đảm
cho bằng được việc nhận thức về niềm tự do mình có quyền hưởng, khi nhớ rằng
các môn đệ của Chúa Kitô phải "vâng lời Thiên Chúa hơn là người ta"
(Acts 5:29).
Thiên Chúa đang Sửa Soạn
một Mùa Xuân Mới cho Phúc Âm
một Mùa Xuân Mới cho Phúc Âm
86-Nhìn vào thế giới hôm nay, chúng ta bị dội lại bởi nhiều yếu tố tiêu cực có
thể làm cho chúng ta bi quan. Thế nhưng, cảm giác này không chính đáng: chúng
ta tin vào Thiên Chúa là Cha và là Chúa của chúng ta, vào lòng tốt và tình
thương của Ngài. Trong lúc Ngàn Năm thứ ba của ơn cứu chuộc gần đến, Thiên Chúa
đang sửa soạn một mùa xuân rất tươi đẹp cho Kitô giáo, và chúng ta đã thấy được
các dấu hiệu le lói của nó. Thật vậy, cả nơi thế giới ngoài Kitô giáo lẫn nơi thế
giới Kitô giáo lâu đời, con người đang dần dần tiến gần tới những lý tưởng và
giá trị Phúc Âm hơn, một đà phát triển Giáo Hội đang tìm cách phấn khích. Thật
vậy, ngày nay, các dân tộc có một cảm nhận chung về những giá trị sau đây: việc
loại trừ bạo lực và chiến tranh; việc tôn trọng con người và các quyền lợi của
con người; niềm mong ước được tự do, công chính và tình yêu huynh đệ; việc
thắng vượt các hình thức khác nhau về chủng tộc và dân tộc; việc công nhận phẩm
vị và vai trò của nữ giới.
Niềm hy vọng
của Kitô giáo nâng đỡ chúng ta trong việc chúng ta hoàn toàn dấn thân cho công
cuộc truyền bá phúc âm hoá, cũng như cho việc truyền giáo đại đồng, và khiến
chúng ta nguyện cầu như Chúa Giêsu dạy chúng ta: "Chúng con nguyên Nước
Cha trị đến. Chúng con nguyện ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời"
(Mt 6:10).
Còn thật
nhiều người đang đợi chờ Chúa Kitô, đó là những nhóm người và những khối văn
hoá chưa biết đến Phúc Âm, hay những người hầu như chưa biết đến có Giáo Hội,
nhiều đến nỗi cần phải liên kết tất cả nguồn lợi của Giáo Hội lại. Vào thời
điểm sửa soạn cử hành Cuộc Mừng Kỷ Niệm năm 2000, toàn thể Giáo Hội lại càng
dấn thân cho một mùa vọng truyền giáo mới. Chúng ta phải tăng thêm lòng nhiệt
thành tông đồ của chúng ta để truyền sang cho các người khác ánh sáng và niềm
vui của đức tin, và toàn thể Dân Chúa phải được giáo huấn theo lý tưởng cao cả
này.
Chúng ta
không thể bằng lòng khi thấy cả triệu triệu anh chị em của mình, cũng như chúng
ta, được cứu chuộc bằng máu Chúa Kitô, mà lại sống chẳng biết gì về tình yêu
của Thiên Chúa cả. Bởi vì, đối với mỗi một tín hữu, cũng như đối với toàn thể
Giáo Hội, công việc truyền giáo vẫn phải là một việc làm trên hết, vì công việc
này liên quan đến định mệnh đời đời của con người, cũng là công việc hợp với dự
án nhiệm mầu và nhân hậu của Thiên Chúa.
VIII
LINH ÐẠO TRUYỀN GIÁO
Hoạt động
truyền giáo đòi phải có một linh đạo đặc biệt, một linh đạo áp dụng riêng cho
tất cả những ai được Thiên Chúa kêu gọi để trở thành những nhà truyền giáo.
Ðược Thần Linh Dẫn Dắt
Linh đạo này
trước hết được thể hiện nơi một đời sống hoàn toàn dễ dạy đối với Thần Linh.
Thần Linh sẽ uốn nắn đời sống được chúng ta phó thác cho Ngài, để nhờ đó chúng
ta càng ngày càng trở nên giống Chúa Kitô hơn. Chúng ta không thể nào làm chứng
cho Chúa Kitô mà lại không phản chiếu hình ảnh của Người, một hình ảnh được làm
cho sống động trong chúng ta, nhờ ân sủng và quyền năng của Thần Linh. Như thế,
tấm lòng dễ dạy này làm cho chúng ta nhận được các ơn mạnh bạo và khôn ngoan là
những yếu tố thiết yếu cho linh đạo truyền giáo.
Ðiển hình
cho linh đạo này là gương của các vị Tông Ðồ trong đời sống công khai của Chúa
Kitô. Mặc dù các vị yêu mến Người và quảng đại đáp lại lời Người kêu gọi, các
vị vẫn tỏ ra cho thấy các vị không thể nào hiểu được những lời của Người và tỏ
ra lưỡng lự theo Người trên con đường khổ đau và hèn hạ. Thần Linh đã biến đổi
các vị thành những chứng nhân can trường của Chúa Kitô, cũng như thành những
con người khôn ngoan loan truyền lời của Chúa Kitô. Chính Thần Linh là Ðấng đã
hướng dẫn các vị qua khó khăn thử thách và theo những đường lối mới của việc
truyền giáo.
Ngày nay,
cũng như trong quá khứ, việc truyền giáo vẫn gặp khó khăn thử thách và phức
tạp, đòi phải có lòng can đảm và ánh sáng của Thần Linh. Chúng ta thường cảm
nghiệm thấy tình trạng thảm thương của cộng đồng Kitô giáo tiên khởi, một cộng
đồng đã chứng kiến thấy những lực lượng không chịu tin tưởng và hận thù
"hợp nhau chống lại Chúa và Ðấng Xức Dầu của Ngài" (Acts 4:26). Giờ
đây, cũng như hồi ấy, chúng ta phải cầu nguyện để Thiên Chúa ban cho chúng ta
lòng mạnh dạn rao giảng Phúc Âm; chúng ta phải chú ý tới những đường lối nhiệm
mầu của Thần Linh và để cho Ngài dẫn dắt mình vào tất cả sự thật (x. Jn 16:13).
Sống Mầu Nhiệm Chúa Kitô,
"Ðấng được sai đi"
88-Một đặc tính thiết yếu của linh đạo truyền giáo là sống hiệp thông thân mật
với Chúa Kitô. Chúng ta không thể hiểu biết và thi hành việc truyền giáo được,
trừ phi chúng ta đối chiếu nó với Chúa Kitô là Ðấng đã được sai đi truyền bá
phúc âm hoá. Thánh Phaolô đã diễn tả thái độ của Chúa Kitô như sau: "Tác
hành của anh em phải giống như của Chúa Giêsu Kitô, Ðấng mặc dù mang danh phận
là Thiên Chúa song cũng không cho mình cứ phải ngang hàng với Thiên Chúa mới
được, trái lại, Người đã hủy mình ra hư không, mặc lấy thân phận tôi đòi, sinh
ra giống như con người. Và trong hình dạng làm người, Người đã tự hạ và đã vâng
lời cho đến chết, cho dù có phải chết trên Thập Giá" (Phil 2:5-8).
Như thế, Mầu
Nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc được cho thấy như là một việc hoàn toàn tự hư không
hoá bản thân mình, nhờ đó Chúa Kitô có thể sống trọn vẹn thân phận con người,
trong việc chấp nhận làm theo tất cả dự án của Cha. Cuộc tự hủy bản thân mình
ra hư không này là một cuộc tự hủy bản thân mình chan hòa những yêu thương và
nói lên lòng yêu thương. Việc truyền giáo đi theo cùng một đường lối như vậy,
và là việc truyền giáo dẫn đến chân Thập Giá.
Nhà truyền
giáo cần phải "từ bỏ chính mình và mọi sự cho đến bấy giờ họ cho là của
mình, để làm cho mình nên mọi sự cho mọi người" (Công Ðồng Chung Vaticanô
II, Sắc Lệnh về Hoạt Ðộng Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, 24).
Họ làm điều này bằng một đức khó nghèo khiến họ thanh thoát sống cho Phúc Âm,
bằng việc thắng vượt lòng dính bén với con người cũng như sự vật bao quanh họ,
để họ có thể trở nên anh chị em cho những ai họ được sai tới và nhờ đó họ mang
Chúa Kitô Cứu Thế đến cho những người đó. Ðó là mục tiêu của linh đạo truyền
giáo: "Ðối với người yếu đuối tôi trở nên người yếu đuối...; tôi trở nên
mọi sự cho mọi người để bằng mọi cách có thể cứu được một số nào đó. Tôi làm
tất cả những điều này là vì Phúc Âm..." (1Cor 9:22-23).
Chính vì
được "sai" mà nhà truyền giáo nghiệm thấy sự hiện diện an ủi của Chúa
Kitô, Ðấng ở với họ mọi giây phút trong cuộc sống -"Ðừng sợ... vì Ta ở với
con" (Acts 18:9-10) -và là Ðấng chờ đợi họ nơi cõi lòng của mọi người.
Yêu Mến Giáo Hội và Nhân Loại
như Chúa Kitô
89-Linh đạo truyền giáo cũng được đánh dấu bằng đức ái tông đồ, đức ái của
Chúa Kitô, Ðấng đã đến "để tụ họp con cái Thiên Chúa bị phân tán khắp nơi
về một mối" (Jn 11:52), đức ái của Vị Mục Tử Nhân Lành biết chiên của
mình, tìm kiếm chúng và hiến mạng sống mình cho chúng (x. Jn 10). Những ai có
tinh thần truyền giáo cảm thấy tình yêu khát khao các linh hồn của Chúa Kitô và
tình yêu của Chúa Kitô đối với Giáo Hội.
Nhà truyền giáo
bị thôi thúc bởi "lòng nhiệt thành đối với các linh hồn", một lòng
nhiệt thành do đức ái của Chúa Kitô thúc đẩy, dưới hình thức quan tâm, dịu
dàng, thương cảm, cởi mở, sẵn sàng và chú trọng tới các vấn đề của con người.
Tình yêu của Chúa Kitô rất sâu xa: Ngài là Ðấng "biết những gì nơi con
người" (Jn 2:25), đã yêu thương mọi người bằng việc hiến cho họ ơn cứu
chuộc và chịu đựng khổ đau khi bị ruồng bỏ.
Nhà truyền
giáo là một con người của đức ái. Ðể loan truyền cho tất cả mọi anh chị em của
mình là những người anh chị em ấy được Thiên Chúa yêu thương và có khả năng yêu
thương, nhà truyền giáo phải chứng tỏ tình yêu đối với tất cả mọi người, bằng
việc hiến cuộc sống mình cho tha nhân. Nhà truyền giáo là "anh chị em của
hết mọi người", khi mang nơi bản thân mình tinh thần của Giáo Hội, tấm
lòng cởi mở và nỗi quan tâm của Giáo Hội đối với tất cả mọi dân tộc và mọi
người, nhất là đối với những anh chị em thấp kém và nghèo hèn nhất. Sống như
vậy, nhà truyền giáo mới thắng vượt được những trở ngại và phân rẽ về chủng
tộc, giai cấp hay ý thức hệ. Nhà truyền giáo là dấu chứng của tình yêu Thiên
Chúa trên thế giới này -một tình yêu không phân biệt hay thiên vị.
Sau hết, như
Chúa Kitô, nhà truyền giáo phải yêu mến Giáo Hội: "Chúa Kitô đã yêu thương
Giáo Hội và đã hiến mạng sống mình cho Giáo Hội" (Eph 5:25). Tình yêu
thương này, cho đến độ hiến mạng sống mình, là đích điểm họ nhắm đến. Chỉ có
tình yêu sâu xa đối với Giáo Hội mới có thể bảo trì lòng nhiệt thành của nhà
truyền giáo mà thôi. Cái thôi thúc hằng ngày của nhà truyền giáo, như Thánh
Phaolô nói, đó là "mối quan tâm lo cho tất cả mọi Giáo Hội" (2Cor
11:28). Ðối với hết mọi nhà truyền giáo, "lòng trung thành với Chúa Kitô
không thể nào tách lìa khỏi lòng trung thành với Giáo Hội" (Công Ðồng
Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Thừa Tác Vụ và Ðời Sống của Các Linh Mục Presbyterorum
Ordinis, 14).
Nhà Thừa Sai Ðích Thực là Một
Vị Thánh
90-Ơn gọi hoạt động truyền giáo, tự bản chất của mình, là một ơn gọi phát xuất
từ ơn gọi nên thánh. Một nhà truyền giáo thực sự như vậy chỉ khi nào họ dấn
thân sống theo con đường thánh thiện: "Thánh Thiện phải được gọi là một
tiên quyết căn bản và là một điều kiện không thể thay thế đối với mọi người
trong việc hoàn tất sứ mệnh cứu độ trong Giáo Hội" (Tông Huấn Christifideles
Laici, 17: loc. cit., 419).
Ơn gọi phổ
quát nên thánh gắn liền với ơn gọi phổ quát
truyền giáo. Mọi phần tử tín hữu đều được kêu gọi nên thánh và truyền giáo.
Ðây là điều Công Ðồng hết sức tha thiết ước mong, một Công Ðồng hy vọng có thể
"soi sáng cho tất cả mọi dân nước bằng ánh quang của Chúa Kitô, một ánh
quang phát tỏa trên khuôn mặt của Giáo Hội, bằng việc rao giảng Phúc Âm cho mọi
tạo vật" (Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 1). Linh
đạo truyền giáo của Giáo Hội là một cuộc hành trình tiến đến sự thánh thiện.
Việc canh
tân động lực cho việc truyền giáo ad gentes đòi phải có những
nhà truyền giáo thánh đức. Việc cập nhật hoá những kỹ thuật mục vụ, tổ chức và
điều hành các nguồn lực của giáo hội, hay nghiên cứu sâu xa vào nền tảng thánh
kinh và thần học về đức tin, cũng chưa đủ. Ðiều cần là lòng phấn khởi cho
"việc hăng say nên thánh" mới mẻ nơi các nhà truyền giáo, cũng như
nơi khắp các cộng đồng Kitô giáo, đặc biệt nơi những ai làm việc gần gũi nhất
với các nhà truyền giáo (xem Bài Diễn Từ ở Cuộc Họp CELAM, tại
Port-au-Prince, ngày 9/3/1983: AAS 75 năm 1983, 771-779; Bài Giảng Khai
Mạc cho "Novena of Years" do CELAM phat động, Santo Domingo, ngày
12/10/1984: Insegnamenti VII/2 năm 1984, 885-897).
Anh Chị Em
thân mến: chúng ta hãy nhớ đến lòng nhiệt thành truyền giáo của các cộng đồng
Kitô hữu tiên khởi. Bất chấp phương tiện di chuyển và truyền thông hạn hẹp vào
những thời ấy, việc loan truyền Phúc Âm vẫn nhanh chóng tiến đến tận cùng trái
đất. Ðó là tôn giáo của một Con Người chết trên thập giá, của "một viên đá
vấp phạm cho người Do Thái và ngu xuẩn cho Dân Ngoại" (1Cor 1:23)! Bên
dưới cái năng động truyền giáo này chính là đời sống thánh thiện của các Kitô
hữu và các cộng đồng Kitô hữu tiên khởi vậy.
91-Thế nên, Tôi muốn ngỏ lời với những phần tử mới được rửa tội nơi các cộng
đồng trẻ cũng như nơi các Giáo Hội trẻ. Hôm nay, các con là niềm hy vọng của
Giáo Hội hai ngàn tuổi của chúng ta đây: là con người trẻ trung về đức tin, các
con phải như những Kitô hữu tiên khởi, chiếu tỏa nhiệt tình và lòng can đảm, trong
việc quảng đại hiến thân cho Thiên Chúa và tha nhân. Tóm lại, các con phải dấn
thân trên con đường thánh thiện. Chỉ có thế các con mới là dấu chứng của Thiên
Chúa trên thế giới này, và mới làm sống lại nơi quê hương xứ sở của các con
truyền sử của Giáo Hội sơ khai. Các con cũng mới là men tinh thần truyền giáo
cho các Giáo Hội lâu đời.
Về phần
mình, các nhà truyền giáo phải phản chiếu tặng ân được mời gọi của mình nơi
nhiệm vụ nên thánh cần phải có nơi họ, phải lập lại trong tâm trí mỗi ngày, và
cố gắng cập nhật hoá việc huấn luyện về tín lý cũng như về mục vụ. Nhà truyền
giáo phải là một "nhà chiêm niệm trong hoạt động". Họ tìm thấy những
giải đáp cho các vấn đề theo ánh sáng của lời Chúa, cũng như trong lời cầu
nguyện chung riêng. Việc Tôi tiếp xúc với các vị đại biểu của các truyền thống
linh đạo ngoài Kitô giáo, nhất là những vị ở Á Châu, đã làm cho Tôi tin tưởng
theo chiều hướng là, tương lai của việc truyền giáo phần lớn lệ thuộc vào việc
chiêm niệm. Nhà truyền giáo nếu không phải là một người chiêm niệm thì họ không
thể nào loan truyền Chúa Kitô một cách khả tín được. Họ là chứng nhân cho cảm
nghiệm về Thiên Chúa, và họ phải nói được như các vị Tông Ðồ: "những gì
chúng tôi trông thấy... liên quan đến lời sự sống, ... thì chúng tôi cũng đem loan
truyền cho anh em" (1Jn 1:1-3).
Nhà truyền
giáo là một người của các Phúc Ðức. Trước khi sai 12 Vị đi truyền bá phúc âm
hoá, Chúa Giêsu, trong "bài nói về truyền giáo" (x. Mt 10), đã dạy
cho các vị biết những đường lối hoạt động truyền giáo: đó là nghèo khó, khiêm
nhu, chấp nhận khổ đau và bách hại, mong ước công lý và hòa bình, đức ái -tức
là, các Phúc Ðức được thực hành trong đời sống tông đồ (x. Mt 5: 1-12). Khi
sống các Phúc Ðức, nhà truyền giáo cảm thấy và chứng tỏ cho thấy một cách cụ
thể rằng, Vương Quốc của Thiên Chúa đã trị đến, và họ đã chấp nhận Vương Quốc
này. Ðặc tính của hết mọi cuộc sống truyền giáo chân chính đó là niềm vui nội
tâm do đức tin mà có. Trong một thế giới bị quằn quại và dập dụi bởi quá nhiều
rối ren, một thế giới có xu hướng bi quan, thì con người loan truyền "Tin
Mừng" phải là một con người tìm được niềm hy vọng thực sự nơi Chúa Kitô.
Kết Luận
92-Ngày hôm nay, Giáo Hội được một cơ hội, như chưa bao giờ có trước đây, dùng
chứng từ và lời rao giảng của mình để mang Phúc Âm đến cho tất cả mọi dân tộc
và mọi quốc gia. Tôi thấy được rạng đông của một thời truyền giáo mới, một rạng
đông sẽ trở thành một ngày sống rạng ngời mang lại cả một mùa màng phì nhiêu,
nếu tất cả mọi Kitô hữu, nhất là các nhà truyền giáo và các Giáo Hội trẻ, quảng
đại và thánh thiện đáp ứng những mời gọi và thách đố trong thời đại của chúng
ta đây.
Như các vị
Tông Ðồ sau khi Chúa Kitô Thăng Thiên, Giáo Hội cũng phải hợp nhau lại trên căn
Thượng Lầu "cùng với Ðức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu" (Acts 1:14), để
cầu xin Thần Linh, cũng như để lấy sức lực và lòng can đảm trong việc thực thi
mệnh lệnh truyền giáo. Cả chúng ta nữa, như các vị Tông Ðồ, chúng ta cần phải
được Thần Linh biến đổi và hướng dẫn.
Vào thời
điểm sát cận Ngàn Năm thứ ba, toàn thể Giáo Hội được mời gọi sống tha thiết với
mầu nhiệm của Chúa Kitô hơn nữa, bằng việc cộng tác với một lòng tri ân cảm mến
vào công cuộc cứu độ. Giáo Hội làm việc này cùng với Mẹ Maria và theo gương Mẹ
Maria, Mẹ của Giáo Hội và là mô phạm của Giáo Hội: Mẹ Maria là mô phạm của một thứ
tình yêu mẫu tử làm cho tất cả mọi người hứng khởi cộng tác vào sứ mệnh tông đồ
của Giáo Hội trong việc tái sinh nhân loại. Thế nên, "được kiên cường bởi
việc Chúa Kitô hiện diện, Giáo Hội hành trình qua thời gian, tiến về tột đỉnh
của các thời đại, để nghênh đón Chúa đến. Thế nhưng, trong cuộc hành trình
này... Giáo Hội tiến bước theo con đường được vạch vẽ dấu chân
của Trinh Nữ Maria" (Thông Ðiệp Redemptoris Mater, ngày
25/3/1987, 2: AAS 79 năm 1987, 362f).
Tôi ký thác
Giáo Hội, nhất là những ai đang dấn thân thực hiện mệnh lệnh truyền giáo trong
thế giới hôm nay cho "vai trò trung gian của Ðức Maria là vai trò hoàn
toàn hướng về Chúa Kitô và hướng đến việc tỏ hiện quyền năng cứu độ của
Người" (ibid. 22: loc. cit., 390). Như Chúa Kitô đã sai các Tông Ðồ của
Người đi nhân danh Cha và Con và Thánh Thần thế nào, để lập lại lệnh truyền
này, Tôi cũng ban cho tất cả các con Phép Lành Tòa Thánh của Tôi, nhân danh
Chúa Ba Ngôi Chí Thánh. Amen.
Ban hành tại
Rôma, Ðền Thờ Thánh Phêrô, ngày 7/12/1990, Kỷ Niệm 25 Năm Sắc Lệnh Công
Ðồng Ad Gentes, năm thứ 13 của Giáo Triều Tôi.
Gioan Phaolô II
No comments:
Post a Comment