“Đây là mẹ của
anh” (Ga 19,27)
MẸ MARIA VÔ NHIỄM
PHÙ HỘ CÁC GIÁO HỮU
Mẹ
và Bà Giáo của Don Bosco
[…]. Cha mời gọi
anh em chiêm ngắm Đức Maria Vô Nhiễm Phù Hộ các Giáo hữu; trong mọi sự, Đức
Maria luôn là Mẹ và Bà Giáo của Don Bosco, để vào cuối đời, ngài có thể nói: “mọi
phúc lành đều nhờ Đức Mẹ”.
Bằng cách này,
cha muốn dõi theo những vị tiền nhiệm của mình, đặc biệt những Cha Bề Trên Cả mới
đây. Đồng thời cha cũng muốn suy tư sâu hơn về những điều Hiến Luật
nói với chúng ta liên quan đến Đức Trinh Nữ Maria. Khi làm Bề Trên Cả,
Cha Egidio Viganò đã viết lá thư đầu tiên để suy tư về Đức Maria Vô nhiễm Phù hộ
các giáo hữu với tựa đề: “Đức Maria canh tân Gia đình Salêdiêng Don Bosco”;
Lá thư ấy thật có ý nghĩa đối với cha.
Quy chiếu đến đoạn
Tin Mừng Ga 19,26-27, cha Viganò bình giải: “theo bản năng, cha nghĩ về Tu Hội và
toàn Gia đình Salêdiêng, ngày nay chúng ta cần phải cẩn trọng xét lại thực tại tình mẫu tử thiêng liêng của Đức Maria và
một lần nữa sống thái độ và kiên quyết của người môn đệ. Cha tự nhủ: chúng ta
phải làm cho lời xác quyết của Thánh sử Gioan thành chương trình canh tân của
chúng ta: “dành chỗ cho Đức Mẹ trong nhà chúng ta!”.
1. MẸ
MARIA VÔ NHIỄM
PHÙ HỘ CÁC
GIÁO HỮU, TRONG ĐỜI SỐNG CỦA
THÁNH GIOAN BOSCO
Nói về sự hiện
diện của Đức Maria trong câu chuyện cuộc đời của cha chúng ta là nói đến toàn bộ
đời sống của ngài và chúng ta không thể làm việc này chỉ trong vài hàng chữ. Hiến Luật
đã cống hiến cho ta một bản tóm tắt tuyệt vời. Trong Hiến Luật, khoản 8, chúng ta tìm được ba từ ngữ cốt yếu (chìa
khóa) để hiểu rõ sự hiện diện từ mẫu của Đức Maria trong đời sống của Đấng Sáng
lập: Mẹ tỏ cho Don Bosco cánh đồng làm việc của ngài giữa giới
trẻ và liên lỷ hướng dẫn và nâng đỡ ngài, nhất là trong việc sáng lập Tu Hội
chúng ta. Hơn nữa, ngay đầu Hiến Luật,
chúng ta tìm được cùng một xác tín: “qua sự can thiệp từ mẫu của Đức Maria,
Chúa Thánh Thần đã khơi dậy thánh Gioan Bosco” (HL 1).
1.1 Sự can thiệp từ mẫu của Đức Maria trong cuộc
đời Don Bosco
Trước tiên, Hiến
Luật nói với chúng ta rằng Đức
Maria “đã chỉ cho Don Bosco cánh đồng
làm việc của ngài giữa giới trẻ”. Hẳn nhiên điều này gợi nhắc lại giấc mơ lúc
chín tuổi. Chắc chắn chúng ta đã có dịp suy gẫm về giấc mơ đó, cách riêng năm
nay, khi chúng ta có trong tay cuốn Hồi ký Nguyện xá, cuốn sách vốn là “bản đồ chỉ
đường” cho giai đoạn thứ nhất để chuẩn bị Đệ nhị bách chu niên.
Một trong những nét gây ấn tượng trên cha nhiều nhất
trong “thuật trình về việc sáng lập” này là sự liên kết mật thiết giữa Chúa Giêsu và Đức Maria, Mẹ Ngài. Khi bé
Gioan đưa ra hai câu hỏi, câu một về căn tính của nhân vật huyền bí và câu hai
về danh tánh của Ngài (người ta không thể không gợi nhắc đến Xh 3, 13). Trong cả
hai trường hợp cậu bé Gioan Bosco được quy chiếu tới Đức Maria:
. Nhưng ông là ai mà lại nói
như thế?
. Ta là Con của người Phụ Nữ mà mẹ con dạy con phải
chào ba lần một ngày.
. Mẹ con cũng bảo con không
được bầu bạn với những người mà con không biết trừ phi được phép của mẹ. Vì vậy
ông hãy nói cho con tên của ông đi.
. Con hãy hỏi mẹ của Ta: Ta tên gì?
Mẹ là “người nữ có dáng vẻ oai nghiêm… mang một áo
choàng lấp lánh như thể được đính bằng những sao sáng”. Mẹ giải thích thị kiến
và chỉ ra sứ mệnh Thiên Chúa trao phó cho cậu: "Đây là cánh đồng làm việc của con. Con hãy làm cho mình nên khiêm nhường, mạnh
mẽ và nghị lực; và điều con sẽ thấy xảy ra cho những thú vật này trong chốc lát
là điều con phải làm cho các trẻ của Ta”.
Lối diễn đạt cuối cùng này cực kỳ ý nghĩa: đang khi nhận
những mệnh lệnh từ Đức Maria, cậu bé Gioan nhận diện Đức Maria như là mẹ của giới
trẻ nghèo, bị bỏ rơi và gặp nguy hiểm. Trong phần cuối của giấc mơ, những người
này được biến đổi từ thú hoang thành những con chiên hiền lành, “chúng đều nhảy
tung tăng và kêu lên như thể đón chào người đàn ông và người phụ nữ”.
Don Bosco được trao ban không chỉ “thông tin về cánh đồng
hoạt động của mình và mục đích của nó”, nhưng cả phương pháp, nói cách khác, “lòng
thương mến hiền dịu” cùng với lý trí và tôn giáo. Lòng mến thương ấy sẽ cấu
thành hệ thống mà sau này Don Bosco sẽ gọi
là “Hệ thống Dự phòng”. “Con sẽ chinh phục những người bạn của con không phải bằng
bạt tai nhưng bằng hiền dịu và tình yêu. Con hãy bắt đầu dạy ngay cho chúng biết
tội lỗi thật xấu xa, còn nhân đức thật quý giá”. “Dưới sự hướng dẫn của bà giáo Maria, Don Bosco sống
với thanh thiếu niên của Nguyện xá đầu tiên một kinh nghiệm thiêng liêng và
giáo dục mà ngài gọi là “Hệ thống Dự phòng” (HL 20).
Trong cùng viễn cảnh này, mặc dù mãi đến 20 năm sau
(1844), chúng ta tìm thấy một giấc mơ tương tự. Một lần nữa, Đức Maria lại ở
đó, dưới hình dáng một vị Nữ Mục Tử tuyệt trần; đang khi tỏ cho ngài cánh đồng
của sứ mệnh, Mẹ đề xướng cho vị linh mục trẻ phương pháp phải dùng để thực thi sứ mệnh này, cùng với
những người cộng sự khác.
Rồi cha thấy bốn phần năm những con thú được biến
thành chiên và con số ấy ngày một gia tăng thêm mãi. Chính lúc đó một vài vị mục
tử đến chăm sóc đàn chiên. Nhưng họ chỉ ở lại một lúc rất ngắn và mau chóng đi
ngay. Rồi xảy ra một điều kỳ diệu. Nhiều con chiên lại biến thành những mục tử.
Chúng lớn lên và chăm sóc cho những con khác. Khi con số của các mục tử trở nên
lớn, họ tách ra và đi tới những chỗ khác để quy tụ những con thú xa lạ khác và
dẫn chúng vào thành những đoàn vật khác.
Trong bản văn này,
cha thích nhấn mạnh điều cấu thành “phương pháp Salêdiêng cách độc đáo”
để cổ võ ơn gọi, nhưng không vì lý do đó chối bỏ giá trị của những đề xướng hay
phương pháp khác. Đối với chúng ta, lời khuyên đến từ chính Mẹ Thiên Chúa. Đó
là: “Hãy biến đổi một số con chiên thành những vị mục tử”. Nhắc lại điều cha đã
nói ở một trong những lá thư trước, nhân dịp kỷ niệm 150 năm ngày thành lập Tu
hội cũng đủ : Hầu hết tất cả những người trẻ được quy tụ quanh Đấng sáng lập
tương ứng với “bản miêu tả” trên mà Đức Maria đã chỉ cho Don Bosco 15 năm trước.
“Một điều chắc chắn: Tu Hội Salêdiêng được thành lập và phát triển khi kéo vào
trong Tu Hội đó những người trẻ bị thuyết phục bởi lòng
đam mê tông đồ của Don Bosco và ước mơ của ngài về cuộc đời. Chúng ta phải kể cho giới trẻ nghe câu chuyện về những ngày
ban đầu của Tu Hội, khi những người trẻ là những người đồng sáng lập”. Điều đó giải thích sự kiên trì Don
Bosco sử dụng với một cách thức không theo thông lệ của thời đó, nghĩa là quy tụ
những người cộng sự với mình ngay từ những người trẻ, rồi đào luyện họ với sự
chăm sóc đặc biệt.
Khía cạnh đầu tiên này, về việc Mẹ Maria can thiệp vào
đời sống của Don Bosco tiếp tục là chuẩn mực trong đời sống của Tu Hội chúng
ta, nếu chúng ta muốn sống trung thành với Thiên Chúa và với sứ mệnh chúng ta.
Chúng ta không phải là những người chọn cánh đồng hoạt động và mục tiêu để đạt
tới: khái niệm sâu xa nhất, đằng sau một cảm thức về sứ mệnh
là khái niệm về “được sai” để cộng tác với ông Chủ của mùa gặt nơi giới
trẻ. Đó không đơn giản là vấn đề “làm tốt”, vì có quá nhiều công việc được thực
hiện để cứu rỗi thế gian! Nhất là như một linh mục trẻ, Don Bosco có những khả
thể tông đồ rất đa dạng; nhưng ngài ý thức mình được sai đến cho một sứ mệnh loại
biệt. Ý thức này mạnh mẽ đến nỗi ngài tuyên bố rằng “mọi quan tâm kéo chúng ta
ra khỏi việc chăm sóc giới trẻ thì không thể là điều tốt”.
Đây là một nét tiêu biểu của Tin Mừng: khi các tông đồ
đi tìm Đức Giêsu lúc Ngài đang ở một mình trên núi và sống tới mức cao nhất hữu
thể của Ngài là Con và cầu nguyện với Cha. Họ nói với Ngài: “Mọi người đang tìm
Thầy đấy!”. Ngài trả lời: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung
quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó” (Mc
1,37-38). Bản văn song song nơi Luca nói: “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước
Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó” (Lc
4, 43).
Khi suy tư kỹ hành động của Đức Maria được chỉ ra bằng
từ ngữ đầu tiên, chúng ta tìm thấy trong bản văn Hiến Luật hai từ ngữ khác: Mẹ hướng dẫn và nâng đỡ ngài. Ta có thể
hiểu hai từ ngữ sánh đôi này trong mối liên hệ với hai chiều kích nền tảng của
một người: lý trí và ý chí. Đức Maria là Mẹ và là Bà Giáo soi sáng lý trí của cậu
bé Gioan, để tiệm tiến và mỗi lần một
chút sâu hơn (intus-legere) có thể hiểu sứ mệnh của mình cốt ở điều gì (“Đúng
lúc, con sẽ hiểu mọi sự”), mãi tới khi thời khắc cảm động đến, lúc cử hành
thánh lễ tại Vương cung thánh đường Thánh Tâm, ngài sẽ thú nhận: “Bây giờ cha
hiểu mọi sự”. Đàng khác, Đức Maria nâng đỡ ngài suốt cuộc đời, kiện cường ý chí
ngài để ngài có thể trở nên ngày càng “mạnh mẽ và nghị lực” hơn. Bằng không,
ngài sẽ không thể đương đầu với những gánh nặng và khó khăn của sứ mệnh đó.
1.2. Lời đáp trả của Don Bosco đối với Đức Maria
trong đời sống
Thêm vào điều mà suy tư về ba từ ngữ trên kia cống hiến
cho chúng ta, chúng ta có thể suy niệm về Đức Maria hiện diện trong cuộc đời của
Don Bosco theo những tước hiệu mà ngài muốn làm nổi bật. Chắc chắn, điều đó
không phải là ngẫu nhiên: VÔ NHIỄM
- PHÙ HỘ CÁC GIÁO HỮU. Về điều
này chúng ta tìm được một “bình giải” ngắn trong Luật Đời Sống chúng ta: “Đức
Maria Vô nhiễm Phù hộ các giáo hữu dẫn chúng ta tới sự sung mãn của việc dâng
hiến chúng ta cho Chúa và cho ta can đảm để phục vụ anh chị em chúng ta” (HL
92). Trong bản văn 'ad experimentum'
(thử nghiệm) năm 1972, hai khía cạnh này tách rời nhau, và đặt một cách thứ tự
dưới tước hiệu này hay tước hiệu khác. Trái lại, bản văn hiện hành thống nhất chúng,
vì tình yêu chúng ta dành cho Thiên Chúa thì không thể tách biệt khỏi tình yêu
và sự phục vụ của chúng ta dành cho anh chị em chúng ta, cách riêng giới trẻ mà
Chúa sai chúng ta tới.
Đấng Vô nhiễm
Ở một dịp khác khi cha viết “trên vòm của thánh đường
Đức Mẹ Phù hộ các Giáo hữu có một tượng Mẹ Vô nhiễm rất đẹp. Tượng Mẹ Vô nhiễm ở
bên ngoài, còn tượng Mẹ Phù hộ Các Giáo Hữu ở bên trong. Don Bosco muốn tôn
kính Đức Mẹ với hai tước hiệu này, bởi vì cả hai đều thiết thân với đoàn sủng
và sứ mệnh của ngài: cứu rỗi giới trẻ qua nền giáo dục toàn diện”.
Chỉ vắn tắt gợi nhắc để thấy ý nghĩa và tầm quan trọng
của tước hiệu “Vô nhiễm” thật tuyệt mỹ đối với Don Bosco. Chúng ta biết rằng
tín điều ấy được công bố lúc ngài còn đang sống, ngày 8 tháng 12 năm 1854. Thực
ra, sự liên kết với Đấng Vô Nhiễm đã có trong lòng đạo đức bình dân rồi, vì dân
chúng đã cử hành lễ Mẹ Vô Nhiễm như một lễ kính. Vài năm trước khi long trọng
tuyên bố rằng Đức Maria là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, công cuộc Salêdiêng đã khởi
đầu. Ít nhất, chúng ta gợi nhắc phần nào chính trình thuật của Don Bosco: “Vào
lễ trọng kính Mẹ Vô Nhiễm (8 tháng 12 năm 1841) khi cha đang mặc áo lễ để cử
hành Thánh lễ vào giờ đã định thì ông từ Giuse Comotti nhìn thấy một đứa trẻ
nép ở góc nhà và gọi nó đến để giúp lễ cho cha. Hoàn toàn bối rối, cậu bé trả lời
“cháu có biết giúp lễ đâu”. Ngay
sau đó chúng ta tìm thấy cuộc gặp gỡ quan trọng giữa Don Bosco và Bartolomeo
Garelli với Kinh Kính Mừng. Mọi sự đã
bắt đầu với kinh này.
Hơn nữa, thật tốt
đẹp dường bao khi hồi tưởng lại sự kiện đáng ghi nhớ tại Nguyện Xá khi cử hành
việc công bố tín điều Mẹ Vô Nhiễm. “Đối với Don Bosco việc công bố… là câu trả
lời cho nhiều kinh nguyện và thánh lễ mà ngài đã dâng để cầu xin cho định tín
được nhiều người chờ đợi từ lâu sớm được ban hành. Nay ngài tiếp tục cầu nguyện
và tạ ơn Chúa, vì đã tôn vinh Nữ Vương các Thiên Thần và loài người. Lễ Mẹ Vô
Nhiễm trở thành lễ ngài rất yêu mến cho dù lễ Mẹ Lên Trời vẫn được ngài cử hành
cách long trọng.
Trong lá thư trình bày Hiến Luật
được canh tân, khi nói về ngày 8 tháng 12, cha Egidio Viganò đã viết: “Lễ Mẹ Vô Nhiễm đầy ngập
ý nghĩa cho mỗi con tim Salêdiêng, là một ngày rất thân thiết với Don Bosco.
Đây là ngày mà Don Bosco nói rằng đã ghi dấu đoàn sủng chúng ta được chính thức
sinh ra trong giáo hội. Thật có ý nghĩa khi gợi nhắc một vài biến cố đi liền với
ngày này. Trước tiên cuộc gặp gỡ với Bartolomeo Garelli (1841) và kinh Kính Mừng
khởi sự bài giáo lý mang tính ngôn sứ đó; mở Nguyện Xá thánh Luy tại Porta Nuova; tuyên bố (năm
1859) cuộc họp sẽ khởi sự Tu Hội; ký gởi bản Luật đầu tiên (năm 1878) được in
cho Con Đức Mẹ Phù Hộ; lần đầu tiên một hội viên của chúng ta được chọn làm
Giám Mục (Giám mục Cagliero); và trong năm 1885, lời loan báo quan trọng về việc
chỉ định Don Rua làm Tổng Đại diện (Phó Bề Trên Cả) của Đấng Sáng lập. Vào cùng
ngày 8 tháng 12 năm 1885, cha chúng ta tuyên bố rằng: ‘chúng ta mắc nợ Đức
Maria mọi sự’ và ‘những sự nghiệp và biến cố lớn lao nhất của chúng ta bắt đầu
và đạt đến hoàn thành vào ngày lễ Mẹ Vô Nhiễm’.”
Những điều nhấn mạnh đến mối liên hệ giữa tước hiệu “Vô
Nhiễm Nguyên Tội” và Don Bosco không chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên mang tính
chất lịch sử hay tín lý. Ở tận nền tảng của nó, chúng ta tìm thấy một khía cạnh
cơ bản của “Hệ thống Dự phòng”. Chúng ta cần ghi nhớ điều này một lần nữa, hệ
thống dự phòng không phải là một trực giác giáo dục thông minh cho bằng là một
điều “được khởi hứng từ Thiên Chúa tình yêu, Ngài vốn tiên liệu cho hết thảy thụ
tạo, hằng hiện diện bên cạnh chúng, và tự do ban sự sống của Ngài để cứu chúng”.
Và như thế, “Don Bosco chuyển giao hệ thống
này cho chúng ta như một lối sống và chuyển giao sứ điệp Tin Mừng (…) Hệ thống
này thấm nhập lối tiếp cận của chúng ta với Thiên Chúa, những mối tương giao cá
nhân và cách sống chúng ta trong cộng thể, qua việc thực hành đức ái, biết cách
làm thế nào để mình được yêu mến”. (HL 20). Theo cha nghĩ, chúng ta sẽ không
bao giờ đáp trả đầy đủ thách đố ấy với nhãn quan quá thiếu sót về “Hệ thống Dự
phòng” như đã nêu trên.
Nếu Thiên Chúa “cung cấp trước cho tất cả các tạo vật”
với tình yêu quan phòng của Ngài, thì ta tìm thấy điều này được diễn đạt đầy đủ
nhất nơi Đức Maria, Đấng “đầy ơn sủng”. Như chúng ta biết rõ, “ân sủng” trên hết
là chính Thiên Chúa. Nhưng diễn đạt này cũng có thể nhấn mạnh đến tính chất nhưng không sung mãn của Tình Yêu
Thiên Chúa nơi Đức Maria. Bản văn tuyên bố tín điều của Chân phước Piô IX minh
nhiên nói như thế. Cơ bản, đó là một vấn
đề của điều thánh Gioan nói: “không phải
chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta” (1 Ga
4,10). Chúng ta có thể áp dụng điều này trước hết và một cách độc đáo cho Đức
Maria. Theo nghĩa này, chúng ta có thể chiêm ngắm Mẹ Vô Nhiễm như “hoa quả hoàn
hảo nhất của Hệ thống Dự phòng mang tính tiên liệu của Thiên Chúa”.
Rõ ràng điều đó không loại bỏ lời đáp trả của con người.
Trái lại, điều ấy làm cho lời đáp trả nhân loại thành có thể được và thực sự “đòi
hỏi” lời đáp trả ấy. Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã nhấn mạnh rất hay: “Đấng Tối
cao đợi chờ tiếng Vâng của thụ tạo
như lang quân chờ đợi tiếng vâng của hiền thê (…). Trên thập giá, chính Thiên
Chúa ăn xin tình yêu của thụ tạo của mình. Ngài khát tình yêu của mỗi người
chúng ta”.
Chúng ta có thể áp dụng điều này trước tiên cho chính Đức Maria. Về điều này,
nhận xét của một chuyên viên thần học, Alois Muller, thật thú vị: “Từ quan điểm
lịch sử, nói thật, chúng trước hết không nói về sự thụ thai vô nhiễm của Đức
Maria, nhưng về sự vô tỳ vết của tội lỗi trong đời Mẹ”. Điều
này có nghĩa rằng Giáo hội luôn nhìn thấy trong “Đấng đầy ơn sủng”, không chỉ tặng
phẩm hoàn toàn tự do của Thiên Chúa, nhưng cả lời đáp trả tình yêu, tròn đầy và
toàn diện của Đức Maria.
Đấng Phù Hộ các Giáo hữu
Xét về tước hiệu “Phù Hộ các giáo hữu” (và ở đây ta
nên nhớ, tước hiệu này xuất hiện trong Vatican II, trong Lumen Gentium, được liên kết với tước hiệu “Mẹ
Giáo hội”), chúng ta biết tước hiệu ấy
quan trọng biết bao đối với Don Bosco. Trong lá thư đã được trích dẫn, cha
Egidio Viganò viết: “Lý do đã được rút ra từ một khía cạnh đặc trưng của lòng
sùng kính Đức Maria Phù hộ các Giáo hữu:
ngay tự bản chất, chiều kích sùng kính Đức Maria như thế, dành cho những thời đại khủng hoảng”. Chính Don Bosco
diễn tả điều ấy cho cha Cagliero khi xác quyết: “Đức Mẹ muốn chúng ta tôn kính
Mẹ dưới tước hiệu Phù Hộ các Giáo hữu,
thời đại thật buồn thảm đến nỗi chúng ta thực sự cần đến Đức Nữ Trinh cực thánh
phù giúp trong việc bảo tồn và bảo vệ đức tin Kitô hữu”.
Tiếp tục triền suy tư, cha Viganò “làm cho hợp thời”
những khó khăn của thời đại chúng ta vốn rất khác với những khó khăn của Cha
chúng ta phải đối diện. Sự phức tạp của những khó khăn ngày nay trở thành một
thách đố lớn cho chúng ta: thời đại thay đổi với tốc độ báo động, và văn hóa người trẻ cũng thế
mà chúng ta đang đối diện mỗi ngày. Tuy nhiên ta cần nhấn mạnh một điều: bằng
cách kêu cầu Đức Maria với tước hiệu này, chúng ta không muốn xin Mẹ giúp đỡ và
bảo vệ chúng ta “chống lại” bất cứ ai. Nếu chúng ta tin vào Con Thiên Chúa nhập
thể như nguyên lý làm cho chúng ta có thể xác định Ngài kết hiệp với mọi người
nam nữ trong thế giới (x. GS 22). Dù bất kể tình trạng của họ ra sao, chúng ta
vẫn có thể nói một cái gì đó tương tự về tư thế làm mẹ cách phổ quát của Đức
Maria.
Dù vậy, chúng ta không được bỏ qua những tình trạng
tiêu cực và những vấn đề nổi cộm. Để đối diện với những điều này, chúng ta xin
Mẹ trợ giúp và che chở, cách riêng khi chúng ta đặt mình chống lại sự dữ, chống
lại tội lỗi, chống lại “văn hóa sự chết” quá trái nghịch với sự sống mà như người
nữ và người mẹ, Đức Maria là mẫu gương rạng ngời và đấng che chở quyền lực của
sự sống ấy. Cùng với niềm vui khi đoàn sủng của chúng ta luôn sống động và sinh
nhiều hoa trái trên khắp mọi miền thế giới, cũng trồi hiện nỗi buồn thảm, vì
nhìn thấy những sức mạnh tiêu cực gây ra sự tàn phá. Qua hành động, con người
và cấu trúc cũng như thể chế “sự dữ” (iniquitatis) - tất
cả những diễn đạt của “mầu nhiệm sự dữ”
(mysterium iniquitatis) - những sức mạnh này xói mòn hạnh phúc và làm tổn hại ơn cứu độ của
giới trẻ chúng ta, cách riêng những kẻ ít được bảo vệ nhất. Chính vì chúng mà
ta nài xin sự trợ giúp của Mẹ Maria Phù Hộ, “diện mạo hiền mẫu của tình yêu
Thiên Chúa”.
Cha nghĩ rằng chúng ta có thể suy tư hơn nữa về tước
hiệu này đang khi cố gắng tìm thấy một sự loại suy với tước hiệu Vô Nhiễm
Nguyên Tội mà chúng ta xét trước kia. Nếu định tín Vô Nhiễm Nguyên Tội tái xác quyết trên bình diện tín
lý mọi điều mà Hệ thống Dự phòng muốn nói cho Don Bosco, thì có phải là quá
đáng để thấy tín điều về Đức Maria Lên Trời được Đức Giáo Hoàng Piô XII công bố
năm 1950 liên kết chặt chẽ với tước hiệu “Phù hộ các Giáo hữu” hay không? Thật
đáng ghi nhớ, như các bản văn phụng vụ nhấn mạnh rằng, Đức Giêsu lên trời không
có nghĩa là Ngài lìa xa thế giới hay thiếu chăm sóc cho Giáo Hội và nhân loại,
nhưng ngược lại: “Người lên trời không phải để lìa xa thân phận yếu hèn của
chúng con, nhưng để chúng con là chi thể của Người, tin tưởng được theo Người đến
nơi mà chính Người là Đầu và là Thủ lãnh của chúng con đã đến trước”.
Vậy một cách loại suy, chẳng lẽ chúng ta lại không nói
được rằng Đức Maria Lên Trời ghi dấu Mẹ bắt đầu che chở và trợ giúp với tình mẫu
tử vì tất cả các Kitô hữu, cũng như tất
cả mọi người nam nữ trên thế giới sao? Lối suy tư này về Mẹ, thêm vào việc nối
kết lòng tôn sùng của chúng ta dành cho Đức Maria với các tước hiệu Vô nhiễm-Phù
Hộ các giáo hữu theo huấn quyền của Giáo
Hội sẽ giúp chúng ta hiểu được tại sao đối với
Don Bosco lễ Mẹ Lên Trời là một trong những lễ Ngài ưa thích như bản văn
“Hồi Ký Nguyện Xá” đã được trích dẫn trên kia chỉ ra, và điều này không chỉ vì
sự trùng hợp của nó (cách biểu tượng hơn là theo niên biểu theo nghĩa hẹp) với
ngày sinh của ngài, nhưng vì mối liên hệ với tước hiệu “Phù hộ các Giáo hữu” và
ý nghĩa về lòng tôn sùng của Don Bosco.
2. MẸ MARIA
VÔ NHIỄM
PHÙ HỘ CÁC
GIÁO HỮU TRONG TU HỘI SALÊDIÊNG
NGÀY NAY
Hẳn chắc, sự can thiệp của Đức Maria vào lúc khởi đầu
và trong sự phát triển sơ khai của Tu Hội
chúng ta vẫn tiếp tục qua suốt lịch sử. Don Rua viết năm 1903: “Cha không nghi
ngờ chút nào: lòng sùng kính Đức Maria Phù Hộ các Giáo hữu giữa những người
Salêdiêng càng gia tăng, thì sự kính trọng và tình yêu dành cho Don Bosco cũng
sẽ gia tăng, và sự cam kết để gìn giữ tinh thần và bắt chước các nhân đức của
ngài cũng chẳng thua kém”.
Cha tin hết thảy chúng ta đều thâm tín điều này. Nhưng
nếu điều đó đúng, thì chúng ta cần nhận biết rằng, một sự đáp trả quảng đại và
trung thành trong việc thực thi sứ mệnh chúng ta là thiết yếu. Chúng ta có thể
tự hỏi: ngày nay, chúng ta có thể sẵn sàng để đảm bảo rằng Đức Maria Vô nhiễm
Phù hộ các giáo hữu tỏ cho chúng ta cánh đồng của sứ mệnh chúng ta và tiếp tục
hướng dẫn và nâng đỡ chúng ta trong việc thực thi sứ mệnh đó không? Bằng cách
này, chúng ta sẽ trao hiến một lời đáp trả thực tiễn đối với lời mời của Mẹ: “Người
bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5) và chúng ta sẽ trở thành những tôi tớ của giới trẻ để đảm
bảo cho chúng được an vui và được sống sung mãn trong Thiên Chúa.
Không thể chối cãi, và cha có thể vui sướng kinh nghiệm
điều đó, rằng bất kỳ ở đâu, các Salêdiêng đều cổ võ lòng sùng kính Mẹ Maria Phù
hộ các giáo hữu… Mỗi Tỉnh Dòng đều có những thánh đường và đền thánh dâng kính
Mẹ. Cũng vậy, các tín hữu đều nhận ra chúng ta với tước hiệu này của Đức Maria,
giống như trong thời của Cha chúng ta, họ gọi Đức Maria Phù hộ là “Mẹ của Don
Bosco”. Tuy nhiên, chúng ta không nên
hài lòng với điều các hội viên đã đi trước chúng ta đã làm, cũng như chúng ta
cũng không nên giới hạn mình đơn giản vào việc cổ xúy những hình thức bên ngoài
lòng tôn sùng Đức Maria mà thôi. Nói cách khác, công cuộc loan báo Tin Mừng và
giáo dục của chúng ta, nhất là vì giới
trẻ nghèo, bị bỏ rơi và gặp nguy hiểm, phải là một kinh nghiệm thực tiễn về
Tình Yêu vốn được ban tặng cách tự do, mang tính tiên liệu và hiệu quả mà chúng
ta chiêm ngắm nơi Đức Maria, Vô nhiễm Phù hộ các giáo hữu, hầu làm chúng thành
con cái của Mẹ như Mẹ đã đòi cậu bé Gioan trong giấc mơ phải làm.
2.1. “Mẹ Maria hiện diện giữa
chúng ta” (HL 8).
Khi nhận biết rằng không thể tóm gọn trong vài trang sự
hiện diện từ mẫu của Mẹ Maria Phù hộ các Giáo hữu có ý nghĩa gì cho chúng ta
hôm nay, hoặc những diễn đạt và tỏ lộ khác nhau của lòng tôn kính Đức Maria của
chúng ta (nghĩa là gì), cha sẽ giới hạn chính mình vào việc trình bày chúng ta
tìm thấy gì về Mẹ trong Hiến Luật chúng ta, đang khi cố gắng làm đầy bằng một số
qui chiếu tới Lời Chúa.
Hẳn nhiên, sự trung thành với đoàn sủng chúng ta, hay
đúng hơn trung thành với ý Thiên Chúa trong việc thi hành sứ mệnh chúng ta, hệ
tại ở việc tuân giữ Hiến Luật. Đối với câu hỏi: “Don Bosco sẽ làm gì
ngày nay?” Chúng ta không thể mang đến những câu trả lời chủ quan hay tình cảm,
và thậm chí còn ít hơn nữa những câu trả lời mang tính cá nhân chủ nghĩa. Đúng
hơn, đó là một vấn đề thực thi Luật Đời Sống chúng ta: “Nếu các con đã yêu mến
cha trong qua khứ, các con hãy tiếp tục yêu mến cha trong tương lai bằng sự
tuân giữ xác đáng Hiến Luật chúng ta”. (Lời tựa Hiến Luật và Quy Chế của người Salêdiêng). Cũng
không phải là trệch đường khi gợi nhắc điều mà Tông huấn Vita Consecrata nói: “Khi
phê chuẩn một hình thức đời tu hay một Hội dòng, Giáo Hội xác định rằng trong đoàn sủng thiêng liêng và tông đồ
của Tu hội đó ta tìm được tất cả những điều
kiện thiết yếu để đạt được sự hoàn thiện cá nhân và cộng thể theo Tin Mừng”
(VC 93)
Vậy, trong Hiến
Luật chúng ta, chúng ta có thể
tìm được nhiều quy chiếu đến Đức Maria. Trước hết hai khoản hoàn toàn dành cho
Mẹ (khoản 8 và 92) mà cha đã quy chiếu đến
vài lần. Khoản 92, trong phần chính, tương ứng với bản văn “thử nghiệm” (ad
experimentum) năm 1972; đàng khác, khoản 8 thì hoàn toàn mới và tương ứng với mục
đích mà phần một của Hiến Luật có. Phần này, vốn cốt ở những khoản 1 - 25 (“Những người Salêdiêng của Don Bosco
trong Giáo Hội”), trình bày căn tính đoàn sủng chúng ta; trước khi nói về “chúng
ta làm” gì, Hiến Luật định nghĩa chúng ta là ai, trong Giáo Hội và
trong thế giới, cách riêng vì giới trẻ.
Và chính trong Chương I, nơi đây trình bày căn tính
chúng ta, mà ta phải đặt một khoản về Đức Maria Vô nhiễm Phù hộ các giáo hữu, để
nhấn mạnh rằng, Mẹ “tạo thành”, ta có thể nói như thế, một phần của gia sản
đoàn sủng Salêdiêng. “Chúng ta tin rằng Đức Maria hiện diện giữa chúng ta và tiếp tục sứ mệnh của Ngài là Mẹ Hội Thánh và Phù hộ các giáo hữu”
(trích dẫn Don Bosco). Lòng sùng kính con thảo của chúng ta đối với Mẹ được đặc
trưng bằng “sự phó thác” (“Chúng con phó mình cho Mẹ”), chiêm niệm cách riêng bản
chất của Mẹ như “người nữ tỳ khiêm cung, nơi ngài, Thiên Chúa đã làm những điều
cao cả”, và là một sự quy chiếu trực tiếp và tức thời đến lõi tủy và tâm điểm của
sứ mệnh chúng ta: “hầu chúng ta trở thành nhân chứng tình yêu vô tận của Con Mẹ
cho giới trẻ” (HL 8).
2.2. “Chúng ta chiêm ngắm và
bắt chước…” (HL 92).
Đàng khác, ta tìm thấy khoản 92 trong bối cảnh là đời sống cầu nguyện, được đặc trưng bằng một
diễn đạt vốn lập tức quy chiếu tới căn tính Kitô hữu của mình: “Trong đối thoại
với Chúa”. Trong bối cảnh này ta trình bày những nét cơ bản của lòng tôn sùng của
người Salêdiêng dành cho Đức Maria Vô nhiễm Phù hộ các giáo hữu. Trước tiên,
cha muốn dừng lại và xem xét hai chữ mà lòng tôn kính này được mô tả: Chúng ta chiêm ngắm - bắt
chước. Dường như đối với cha, so sánh hai
đặc tính này với kinh nghiệm của một trong những vị thánh lớn nhất của
thời đại tân tiến, thánh Têrêsa thành Lisieux, thật có lợi. Trong cách dùng
ngôn ngữ của thánh nữ mà đôi khi có thể tỏ ra có tính cách cảm xúc (tình cảm)
và thậm chí có tính mùi mẫn nào đó, chúng ta tìm được một chiều sâu của một đời
sống Kitô hữu lạ thường và, cách riêng, điều mà Hans Urs von Balthasar nhận diện
như thái độ cơ bản của vị thánh bé nhỏ
dòng Cát minh: thánh nữ đam mê chân lý, đam mê điều chân thật, theo bản năng
chống lại mọi sự sai lầm, cũng
(và trên hết) trong lãnh vực tôn giáo. Khi nói về lòng tôn sùng Đức Maria, vào
cuối đời của mình, thánh Têrêsa thành Lisieux tuyên bố:
Các
linh mục muốn giúp chúng ta nhìn (nơi Đức Maria) những nhân đức thực hành! Hoàn
toàn rất đúng để nói về những đặc ân của Mẹ, nhưng trước hết nhất thiết rằng ta
có thể bắt chước Mẹ. Mẹ ưa thích được bắt chước hơn là ca ngợi, và cuộc đời Mẹ
rất đơn giản (…) Tôi đã thích được làm linh mục biết bao, hầu tôi có thể nói mọi
sự tôi nghĩ về điều này! (…) Không cần phải nói những điều không đúng hay người
ta không biết về Mẹ (…) Bởi lẽ một bài giảng về Đức Nữ Trinh cực thánh làm tôi
vui thích và sinh lợi cho tôi, thì nó phải làm cho tôi thấy cuộc đời thực sự của
Mẹ, chứ không phải tưởng tượng: và tôi chắc rằng cuộc đời ấy thực sự cực kỳ đơn
giản. Họ làm cho đời sống ấy quá xa vời. Ta cần phải trình bày đời sống ấy như
một điều để bắt chước, khi nêu bật những nhân đức của Mẹ, khi nói rằng Mẹ
đã sống nhờ đức tin như chúng ta khi minh họa nó từ Tin Mừng . (…) Chúng ta biết rất rõ rằng Đức Nữ
Trinh cực thánh là Nữ vương trời đất, nhưng ngài là Mẹ nhiều hơn là Nữ vương.
Cha tin rằng đối với người Salêdiêng chúng ta, “những
người có một tặng phẩm để tổng hợp”, chứ không phải là những thứ hoàn toàn khác
nhau; lại càng không phải là việc xem chúng như đối nghịch (có lẽ cần thiết vào
thời gian và môi trường của thánh Têrêsa) nhưng là hòa hợp hai điều ấy trong một
cách thế đến nỗi sự chiêm ngắm làm cho chúng ta có thể ca ngợi nơi Đức Maria “những
việc làm kỳ diệu của ân sủng Thiên Chúa” và đồng thời khích lệ chúng ta bắt chước
Mẹ. Chắc chắn Thiên Chúa không hoạt động nơi chúng ta theo “cùng một” cách thức
như nơi Đức Maria, nhưng điều đó không có nghĩa theo một cách thức hoàn toàn
khác biệt, nhưng đúng hơn theo một cách thức tương tự.
Thực thế, khi chiêm ngắm Đức Maria nơi hai tín điều trọng
đại, tín điều Vô nhiễm Nguyên tội và tín điều Mẹ Lên Trời, điều mà Thiên Chúa
trong sự tự do vô biên của Tình Yêu Ngài hoàn thành nơi Đức Maria, chúng ta hiểu
trong đức tin điều Thiên Chúa muốn hoàn thành nơi chúng ta, nếu về phần mình,
chúng ta sống với thái độ của Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta nên nhớ rằng “Trong Ðức
Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người,
ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ
tình thương của Người” (Ep 1,4); và sự kiện Đức Maria Lên Trời cấu thành “một dấu
chỉ của niềm hy vọng vững chắc và niềm an ủi cho dân tộc lữ hành của Thiên Chúa”
(x. LG 68): điều được thực hiện nơi Mẹ, Thiên Chúa muốn hoàn thành nơi chúng ta
cách tương tự.
Chúng ta cần dừng lại một chút với ý tưởng “bắt chước”.
Đối với một số Kitô hữu, một từ ngữ như thế có thể sản sinh một tình cảm không
thoải mái nào đó và thậm chí một sự chống đối, vì nó dường như bị giản lược vào
sự lập lại những hành vi và lời nói cách máy móc. Không phải thế! Sự bắt chước
chân chính thì hoàn toàn khác: nó có nghĩa là cá nhân đảm nhận lấy những thái độ và những động cơ cốt yếu, hấp thụ và đem
chúng ra thực hành cách sáng tạo. Về sự bắt chước của chúng ta đối với Đức
Kitô, chúng ta có thể gợi nhắc một vài bản văn từ Phaolô: đấy là vấn đề về suy nghĩ như Đức Kitô (x. 1 Cr 2, 16), cảm nhận như Đức Kitô (x. Pl 2, 5) để
hành động như Đức Kitô. Chúng ta
có thể nói một điều gì tương tự về việc chúng ta chiêm ngắm và bắt chước Đức
Maria Vô nhiễm Phù hộ các giáo hữu.
Như những lời nhắc nhớ này, chúng ta tìm thấy trong bản
văn Hiến Luật một lối diễn đạt kép, khi miêu tả lòng sùng kính Đức Maria của
chúng ta: “Chúng ta nuôi dưỡng một lòng sùng kính con thảo và mãnh liệt đối với
Mẹ” (HL 92). Điều này mời gọi chúng ta đi xa hơn bất kỳ lối tiếp cận sùng kính
thuần túy tình cảm và như vậy yếu mềm, song cũng không rơi vào ý tưởng khô khẳng,
cằn cỗi và quá kỳ lạ. Bài bình luận về
Hiến Luật đó nói: điều này “không chỉ
hàm ẩn sự dịu dàng đối với Mẹ là ‘người mẹ đáng yêu nhất’ nhưng cũng hàm ẩn sự
can đảm của chúng ta trong việc bắt chước Mẹ trong sự tận hiến hoàn toàn cho ý
Chúa”.
Cuối cùng trong cùng
sự minh định này về sự sùng kính của chúng ta, khoản 92 kết luận, chúng
ta “cử hành các lễ của Mẹ để thúc đẩy mình
bắt chước Mẹ cách xác tín và cá nhân hơn”. Đối với cha dường như trong
những bản văn của Hiến Luật chúng ta có
một sự quân bình hoàn hảo giữa sự chiêm ngắm ngạc nhiên trước điều Thiên Chúa
hoàn thành nơi Đức Maria và sự khích lệ để bắt chước Mẹ như con cái của Mẹ
trong những nhân đức lớn lao của Mẹ, cách riêng trong ba thái độ đối thần: tin-cậy-mến.
2.3. “Chúng ta lần hạt mỗi
ngày” (HL 92)
Trước khi nói biệt loại về Đức Maria như khuôn mẫu cho
đời sống tin-cậy-mến của chúng ta, cha thích nói đôi lời về kinh nguyện chúng
ta với Đức Maria, cách riêng về lần hạt. Suốt đời của cha như một Salêdiêng và
thậm chí hơn nữa như một Bề Trên Cả, cha có
thể vui sướng và thán phục quan sát nhiều hội viên, cách riêng những hội
viên lớn tuổi, thực hành cầu nguyện lần hạt “với một sự thánh thiện quá lớn”;
đó là những người, với sự đơn giản lớn lao và sự kiên trì suốt ngày, theo cách
này, diễn đạt họ kết hiệp với Thiên Chúa và họ yêu mến Đức Maria rất thánh. Cha
muốn mời gọi tất cả các hội viên tiếp tục thực hành lòng đạo đức phi thường
này, không phải bởi thói quen hay bởi vì “chúng ta phải làm”, nhưng cố gắng
trân trọng ngày một hơn ý nghĩa và những động lực đằng sau đó.
Trên hết, cha tin rằng đây là một vấn đề của một sự thực
hành vốn liên kết cách hoàn hảo khẩu nguyện với sự chiêm ngắm các mầu nhiệm cuộc
đời Đức Giêsu, cùng với và noi gương Đức Maria, Đấng “hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy,
và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2, 19; x. 3,51b).
Trong tông huấn Marialis
cultus, Đức Phaolô VI viết: “Ta cũng cảm thấy khẩn cấp hơn nhu cầu một lần
nữa phải chỉ ra tầm quan trọng của một yếu tố cốt yếu nữa trong kinh Mân côi,
thêm vào giá trị của những yếu tố ngợi khen, xin ơn, tức là, yếu tố chiêm niệm.
Không có điều này, kinh Mân Côi là xác không hồn, và việc đọc kinh ấy có nguy
cơ trở thành một sự lập lại các công thức cách máy móc (…) Tự bản chất, việc đọc
kinh Mân Côi đòi hỏi một nhịp điệu thinh lặng và một nhịp bước níu lại, giúp cá nhân suy niệm về
những mầu nhiệm cuộc đời của Chúa được nhìn qua con mắt của Đấng gần kề nhất với
Chúa. Bằng cách này những sự giàu có khôn lường của mầu nhiệm được mở ra” (MC
47).
Thật thú vị ghi nhận rằng một lãnh vực rất quan trọng
của thần học hiện hành, cách riêng trong lãnh vực Kitô học và Thánh mẫu học, là
cố gắng canh tân điều ở tận nền tảng của Kinh Mân Côi, nghĩa là “thần học về những mầu nhiệm”.
Một trong những đại diện chính của thần học ấy tuyên bố: “Hoàn toàn chính đáng trong thế hệ tân tiến có một nhu cầu về
việc tái thiết lập một ‘chốn’ cho thần học hệ thống của những thời sơ khai hơn,
nghĩa là bao gồm những mầu nhiệm của Đức Kitô, mysteria Christi, vì thế, của một Kitô học thực tiễn trong khảo luận
về Kitô học vốn đã trở nên ngày càng trừu tượng hơn”. Và rồi xa hơn một chút ông nói: “phong
trào phụng vụ, sự canh tân thần học trong tinh thần học hỏi các giáo phụ (H. De
Lubac, J.Danielou, H. U. von Balthasar), tái khám phá Giáo hội học tín lý và tổng
hợp của nó trong Vatican II, của “lịch sử cứu độ” và của một Kitô học trong bối
cảnh của lịch sử cứu độ (O. Cullmann; Hiến chế Dei Verbum của Vatican II); tất
cả điều này có nghĩa là một khởi đầu của
một cách nhìn mới vào “những mầu nhiệm” của Đức Kitô. Tuy nhiên, dường như đã
xuất hiện trở ngại ngăn cản người Kitô hữu hôm nay không gặp gỡ con người Đức
Kitô trong các mầu nhiệm của Ngài (…) Chúng ta phải khám phá lại mầu nhiệm và
những mầu nhiệm riêng của Đức Kitô, trong gia sản của quá khứ, trên nền tảng của
những cơ sở mới được xây dựng”.
Chúng ta hy vọng rằng sự khích lệ nhỏ bé này sẽ giúp
chúng ta sống lòng sùng kính của chúng ta đối với Đức Maria qua kinh Mân Côi
cách trung thành sáng tạo, và cũng giới thiệu cho giới trẻ chúng ta loại cầu
nguyện và suy niệm đơn giản và thực tiễn này.
3. MẸ MARIA,
KHUÔN MẪU CỦA ĐỨC TIN, ĐỨC CẬY VÀ ĐỨC MẾN
Căn cứ vào sự giàu có và đa dạng của những thái độ đối
với Đức Maria được trình bày cho chúng ta chiêm ngắm và được cống hiến cho
chúng ta bắt chước (cả trong khoản HL 92 và trong một số những khoản khác nói về
Mẹ Thiên Chúa), thật thích đáng để gom chúng lại quanh ba nhân đức đối thần, hầu
liên kết chúng với ba giá trị tin mừng: vâng phục, nghèo khó và thanh khiết. Để
đạt mục đích này, ta sẽ phải nại đến suy tư Thánh Kinh, vì - như
Đức Phaolô VI gợi nhắc trong Tông huấn Marialis
Cultus đã trích dẫn: "ngày nay ta nhận biết như một nhu cầu tổng quát
của lòng đạo đức Kitô hữu rằng mọi hình thức phượng tự phải có ấn dấu thánh
kinh (…) Sự sùng kính Đức Nữ Trinh không thể xá miễn hướng chiều tổng quát này
của lòng đạo đức Kitô hữu: thực thế nó phải rút lấy khởi hứng một cách đặc biệt
từ tập hướng này để đạt được khí lực mới và sự phù giúp chắc chắn”.
Trước hết là một nhận xét chung: ghi nhận ý nghĩa mà
diện mạo Đức Maria đảm nhận, như trong tiến trình lịch sử của Tân Ước bày ra, thật là thú vị. Tiến
trình bắt đầu bằng những bản văn sơ khai nhất
- những lá thư của Phaolô và tin
mừng Marcô, mà chỉ làm một vài sự quy chiếu thoáng qua rồi chuyển tới Mátthêu
và Luca mà, từ những vị trí độc lập (trong phần này thậm chí hơn trong các phần
khác!) cả hai suy tư về nguồn gốc nhân
loại của Đức Giêsu trong mối liên kết chặt chẽ với mẹ Người là Đức Maria; cho đến
khi người ta đạt tới diện mạo của Người Nữ, Evà mới, trong những công trình của
Gioan: Tin mừng thứ Tư và Khải huyền. Chúng ta có thể nói rằng cho tới mức độ
là cộng đoàn Kitô hữu được Thánh Thần soi sáng để suy tư sâu xa hơn về mầu nhiệm
Đức Kitô, thì cộng đoàn ấy cũng dần dần khám phá tầm quan trọng của Đức Maria.
3.1. “Phúc cho em vì đã tin”
(Lc 1,45)
Khoản Hiến Luật chúng ta đang xem xét nói: “chúng ta
chiêm ngắm và bắt chước lòng tin của Mẹ”. Và trong bối cảnh giáo dục đức tin của
giới trẻ, chúng ta đọc trong khoản 34: “Trên bước đường này, Đức Trinh Nữ Maria
hiện diện như một người mẹ. Chúng ta làm cho Mẹ được nhận biết và yêu mến như Đấng
đã tin”. Một câu hỏi mà bản văn này lập tức đặt ra cho chúng ta là: chúng ta có
gợi lên nơi các thanh thiếu niên nam/nữ của chúng ta một lòng sùng kính đối với
Đức Maria vốn làm đức tin của Mẹ nổi bật hay không?
Chúng ta đã biết, đức tin là thái độ nền tảng của người
tín hữu vì như thư Do thái nói: “Không có đức tin, thì không thể làm đẹp lòng
Thiên Chúa”(Hr 11,6). Bà Elisabeth gọi Đức Maria là “kẻ đã tin” tuyệt hảo, khi
chúc mừng và công bố Mẹ được “chúc phúc” chính vì Mẹ đã tin. Lời chúc tụng này
đưa chúng ta về lại cái thời khắc trong cuộc đời của Đức Maria mà chúng ta có
thể gọi là “bước ngoặt”, nói cách khác, đó là biến cố Truyền tin. Chính ở dịp
này mà Đức Maria, khi trở nên ý thức rằng Thiên Chúa có một kế hoạch diệu kỳ
cho mình, thì Đấng “đầy ơn sủng2 (không bản dịch nào thể hiện được đầy đủ sự
giàu có của từ ngữ nguyên gốc trong Tin
Mừng, kecharitoméne!) được mời để tự
do cộng tác với Ngài. Câu hỏi được đặt ra cho thiên sứ Gabrien: “Việc ấy sẽ xảy
ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng”. Không hề chống đối hay tỏ dấu hoài nghi chút
nào, nhưng đúng hơn, Me diễn đạt ước muốn đáp trả cách ý thức và tự do bao có
thể trước lời mời của Thiên Chúa, khi Mẹ dâng trao sự ưng thuận hoàn toàn. Bằng
những hạn từ nghịch lý, Đức Maria vừa tự do vừa vui mừng (viết theo lối ước
mong trong văn phạm) chấp nhận để trở nên “nữ tỳ” của Chúa: “Xin Chúa cứ làm
cho tôi như lời sứ thần nói”.
Cha muốn nhấn mạnh một vài nét được khám phá trong bản
văn Tin Mừng này, được định vị chính trong thời gian sung mãn (x. Gl 4,4):
. Đức tin của Maria tiên vàn là sự tin tưởng vào Thiên Chúa. Như cha đã nói
trong một dịp khác: “Đức Maria không phó thác mình cho kế hoạch của Thiên Chúa,
nhưng đúng hơn cho Thiên Chúa của kế hoạch đó”. Trước tiên, đức tin không phải
là sự chấp nhận một thực tại khách quan nào đó mà Thiên Chúa mạc khải, nhưng là
sự ưng thuận vô điều kiện, tiêu biểu của tình yêu, đối với Ngài và với điều
Ngài muốn nơi chúng ta. “Hãy xin tôi bất kỳ cái gì và tôi sẽ làm điều đó” là một
trong những diễn đạt tiêu biểu của tình yêu, ngay cả trên bình diện nhân loại;
như vậy còn hơn biết mấy trong mối liên hệ của một người với Thiên Chúa. Một
cái gì tương tự xảy ra trong đời sống chúng ta: chúng ta không phó thác
chính mình cho Thiên Chúa, bởi vì chúng
ta đã biết trước kế hoạch của Ngài cho chúng ta, nhưng vì lẽ rằng chính Ngài là
Đấng mời gọi chúng ta đặt mình trong tay Ngài, như một đứa trẻ trong vòng tay mẹ.
. Đức tin của Đức Maria được diễn đạt và mặc hình thức
cụ thể trong sự vâng phục của Mẹ. Những người tín hữu lớn trong lịch sử
cứu độ là những người vâng phục chân chính: bắt đầu với “người cha của chúng ta
trong đức tin”, Abraham cho tới Đức Maria. Thánh Phaolô đã miêu tả ơn gọi tông
đồ của mình theo cách này: “Nhờ Người, chúng tôi đã nhận được các đặc ân và chức
vụ Tông Ðồ, làm cho hết thảy các dân ngoại
vâng phục Đức tin” (Rm 1, 5). Một đức tin mà không dẫn chúng ta tìm kiếm
ý Chúa để rồi đem ra thực hành trong đời sống thì không phải là [đức tin] Kitô hữu
cách chân chính, bởi vì nó bị giản lược vào việc thực thi tri thức khô khẳng
hay vào một ước vọng mang tính chất bao quát cách mơ hồ.
. Trong tiếng Latinh có sự đồng quy rất có ý nghĩa giữa
ba từ ngữ: fides - fiducia
- fidelitas. Đức tin được hiểu
như sự tin tưởng vốn dẫn tới việc vâng phục Thiên Chúa; khi thời
gian trôi qua, đức tin dẫn tới và minh chứng chính mình trong sự trung thành: cách riêng trong những thời khắc
trong đó hoặc người ta “sống nhờ đức tin” hay mọi sự sụp đổ và đổ vỡ. Theo
nghĩa này, khoản Hiến Luật mời gọi chúng ta chiêm ngắm Đức Maria “trung thành
trong giờ phút thập giá”.
Chính đức tin-tin tưởng này được chuyển dịch thành sự
vâng phục vốn ghi dấu lối đường mà Đức Maria theo từ lúc Truyền tin tại
Nadarét, tới Giêrusalem, tới Golgotha, tới chân thập giá, một hành trình hẳn
nhiên khó khăn và buồn phiền. Bởi lẽ, chấp nhận và đón nhận Chúa cách vô điều
kiện vào trong đời Mẹ không làm cho các sự việc nên dễ dàng chút nào, nói theo
kiểu nhân loại. trái lại, nó làm sự việc phức tạp kinh khủng. Cha sẽ nhấn mạnh
hai khía cạnh tiêu biểu của kinh nghiệm đức tin của Đức Maria:
1. Tất cả những kỳ vọng nhân loại của Mẹ (khởi từ kế
hoạch đời sống của mẹ với Giuse!) dường như tan thành mây khói: hạ sinh Con trong nơi thú vật sinh sống bởi vì “không
còn chỗ cho họ trong quán trọ”. (Lc
2,7); lời ngôn sứ buồn thảm của ông Simeon chỉ mới 40 ngày sau khi sinh; cảnh
tượng lúc 12 tuổi ở Giêrusalem mà về đó Tin
Mừng nói: “Nhưng ông bà không hiểu
lời Người vừa nói” (Lc 2,50). Như cha viết trong một lá thư vài năm trước, “bởi
vì trong bất kỳ mối liên hệ nào với Thiên Chúa, chính Ngài luôn có sáng kiến và
quyết định về thời gian và phương thế, nên các mối liên hệ sẽ không bao giờ như
nhau. Đức Maria hiểu điều này rất sớm: từ thời khắc Mẹ sinh con, Mẹ không hiểu
điều đã được nói về Ngài (Lc 2,18-19);
càng nghe về tương lai của con mình, càng thấy ít tương hợp với điều Mẹ đã được
nói trong lúc truyền tin (Lc 1,30-33.35). Sự lạc mất trẻ Giêsu ba ngày trong đền
thờ là một dấu chỉ báo về một tương lai còn đau lòng hơn nhiều (…) Mẹ phải sống
trong cùng một mái nhà với một người con mà biết Ngài là Thiên Chúa nhưng vẫn lụy
phục Mẹ một thời gian (Lc 2,49-51). Ta không ngạc nhiên vì Đức Maria, vốn chẳng
hiểu gì, nên đã “giữ tất cả những điều ấy và suy đi gẫm lại trong lòng” (Lc 2,
19).
2. Nhưng trên hết, chính mối liên hệ của Đức Giêsu với
Mẹ Ngài mới chứng tỏ hành trình đức tin của Mẹ: dường như trong đời sống công
khai Người Con ngày càng làm cho mình xa cách với Mẹ hơn; thậm chí chúng ta tìm được những bản văn
cho ta ấn tượng rằng Đức Giêsu “coi nhẹ” tình mẹ nhân loại này: chỉ gợi nhắc Mc
3,31-35 (dần dần được Mt 12,46tt và Lc 8,19-21, "làm nhẹ đi") và Lc
11,27-28: “Ðúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên
Chúa” là đủ. Chắc chắn không có vấn đề bất kính chút nào đối với Mẹ Ngài đâu,
nhưng đúng hơn cho thấy sự vĩ đại thật sự của Mẹ như khuôn mẫu của kẻ “nghe Lời
Chúa và đem ra thực hành”. Tuy nhiên, ta chẳng hoài nghi chút nào cái giá mà Mẹ
phải trả trong tiến trình tăng trưởng trong đức tin này. Chính bởi vì không ai
như mẹ đã “gần kề” với Con Thiên Chúa làm người nên thật đau thương để sống sự
xa cách tiệm tiến này của "người con" hầu có thể tăng trưởng nhiều
hơn trong đức tin vào “Người Con” viết hoa, Con Thiên Chúa. Tuy nhiên, đang khi
gợi nhắc những lời của Elisabeth, đức tin mà Đức Maria là khuôn mẫu khôn sánh,
lại là nguồn hạnh phúc: hạnh phúc thực sự duy nhất. Chúng ta tìm thấy ở đây một sự đóng khung
lý thú giữa “mối phúc” đầu tiên của Tin
Mừng (chắc chắn trước những mối phúc mà Tin Mừng công bố trong bài giảng trên núi!) và mối
phúc cuối cùng, xuất hiện trong Ga 20,29: “Phúc cho những ai không thấy mà tin!”
Thực thế, mối phúc của đức tin làm cho tất cả những mối phúc khác thành có thể: không có
đức tin thật là phi lý để tuyên bố người nghèo, kẻ đau khổ, người bị khinh thị
là hạnh phúc… Có một sự tiếp nối chính xác giữa mối phúc đầu tiên, trong số ít,
và mối phúc cuối cùng ở số nhiều, như thể nói rằng: “phúc cho những ai giống với
Đức Maria…”.
Cha muốn ghi nhận một sự nhuận sắc nhỏ. Bản dịch những
lời của Bà Elisabeth nổi trôi giữa hai nghĩa, bề ngoài xem ra tương tự, nhưng
thực tế rất khác biệt: “Phúc cho bà là kẻ đã tin rằng lời hứa Chúa làm cho bà sẽ được nên trọn” hay
“Phúc cho bà kẻ đã tin bởi vì lời hứa được Chúa làm cho bà sẽ được nên trọn”. Tất
nhiên, bản dịch tương ứng tốt hơn với hiện trạng thực sự nơi đời sống của Maria
và cũng trong đời sống chúng ta, là bản thứ hai: chúng ta hạnh phúc bởi vì
chúng ta tin rằng điều chúng ta tin do đức tin sẽ được hoàn thành. Nhưng ngay cả
ở đây chúng ta phải thêm: không theo những kỳ vọng của chúng ta nhưng theo kế
hoạch của Thiên Chúa, hoàn toàn được chấp nhận trong “sự vâng phục của đức tin”,
nền tảng của sự vâng phục thánh hiến của chúng ta.
3.2. “Đấng đã tin hằng trợ
giúp và thông truyền niềm hy vọng” (HL 34).
Thật ý nghĩa, trong bản văn Hiến Luật, nơi Đức Maria cũng như nơi đời sống của
mọi Kitô hữu, đức tin và đức cậy, dù tự thân chúng khác nhau lại liên kết mật thiết. Đó là đức tin được dựa trên thực tại lịch sử của Đức
Giêsu Nagiaret, Con Thiên Chúa làm người, trong khi đó, đức cậy nhìn tới tương
lai: “Chúng ta đã được cứu độ, nhưng vẫn còn phải trông mong. Thấy được điều
mình trông mong, thì không còn phải là trông mong nữa” (Rm 8,24). Sự phân biệt
này có thể dẫn chúng ta tách chia hai thái độ, làm nảy sinh sự nhung nhớ đối với
quá khứ vốn làm ta tê liệt về tương lai. Trong lá thứ triệu tập Tổng Tu Nghị
26, cha viết: “Một thách đố, thường được cảm nhận như một đe dọa, liên quan đến một tương lai không chắc chắn của đời thánh hiến, cách riêng về những vấn nạn
được nêu lên về sự sống còn của nó trong một vài phần của thế giới. Con số sút
giảm, thiếu ơn gọi, tuổi các hội viên ngày một cao tạo nên trong các tu hội tình trạng thiếu hẳn những viễn tượng
tương lai, nhu cầu phải tạo lại hình dáng trên bình diện lớn, và sự tìm kiếm sự
ổn định mới về văn hóa. Đôi khi ta phải thêm vào đó sự thiếu tính sinh động, sự
mỏng dòn ơn gọi, và chạy trốn thật đau lòng. Tất cả dẫn tới một sự thiếu động
cơ, sự nản lòng và tê liệt. Trong những trạng huống như thế, thật khó để phân định
một sách lược của đức cậy vốn sẽ mở ra những chân trời, cung cấp những nẻo đường
mới phải theo và đảm bảo tư cách lãnh đạo thiết yếu”.
Như chương trình của Tổng Tu Nghị 26 chỉ ra, “thức tỉnh
lại trái tim của mỗi Salêdiêng” là một vấn đề của “việc sống đức tin chúng ta”
(x. Hr 2,4; Rm 1,17; Gl 3,11) hầu nuôi dưỡng hy vọng và làm cho đức ái mục tử
thành có thể. Nguy hiểm lớn trong những ngày này không phải là mất đức tin cho
bằng một đức cậy yếu kém, không có khả
năng “mơ tưởng” một tương lai hứa hẹn trong việc thực thi sứ mệnh của chúng ta
với giới trẻ. Điều đã xảy ra cho Ghít-ôn
có thể xảy ra cho chúng ta. Ông chắc chắn tin vào mọi sự vốn là đức tin
của dân mình trong quá khứ, nhưng đức tin ấy chẳng cho ông chút can đảm nào đối
với tương lai, đúng hơn là ngược lại:
“Thần sứ Ðức Chúa hiện ra với ông và nói: “Chào chiến
sĩ can trường! Ðức Chúa ở với ông”. Ông
Ghít-ôn đáp: “Ôi, thưa Ngài, nếu Ðức Chúa ở với chúng tôi, thì sao chúng tôi đến
nông nỗi này? Ðâu cả rồi những kỳ công mà cha ông đã kể lại cho chúng tôi nghe,
rằng: chẳng phải Ðức Chúa đã đưa chúng ta lên khỏi Ai cập sao? Thế mà bây giờ Ðức
Chúa đã bỏ rơi chúng tôi, trao chúng tôi vào tay người Ma-đi-an” (Tl 6,12-13).
Chính khi chúng ta đang sống trong những thời buổi khó
khăn mà Đức Maria Phù hộ các Giáo hữu, “Đức Mẹ của những thời buổi khó khăn” tỏ
mình ra là một người Mẹ “truyền thông niềm hy vọng”. Khi chúng ta lần bước theo
hành trình đức tin của Đức Maria, chúng
ta khám phá rằng chính niềm hy vọng được can dự vào. Có lẽ Mẹ đã cảm thấy bị
cám dỗ nghĩ rằng: “Liệu tất cả không phải là một giấc mơ sao? Chắc chắn là đẹp,
nhưng vụt biến tan khi đối diện với thực tại khó khăn của thời buổi hiện tại
sao?” Trong thông điệp về đức cậy, Đức Bênêđictô XVI viết khi ngỏ lời với Đức
Maria:
Rồi
chính khi Đức Giêsu bắt đầu tác vụ công khai, Mẹ đã phải bước ra một bên, để một
gia đình mới có thể tăng trưởng, gia đình mà Đức Giêsu có sứ mệnh thiết lập và
được tạo nên do những ai nghe và giữ lời Ngài (x. Lc 11,27tt). (…) bằng cách
này Mẹ thấy quyền lực thù hận và chống đối đang lớn lên, được dựng lên quanh Đức
Giêsu cho đến giờ của thập giá, khi Mẹ phải nhìn lên Đấng cứu độ thế giới, vị
Thừa kế của Đavít, Con Thiên Chúa, đang hấp hối như một sự thất bại, bị phơi
bày cho nhạo báng, giữa các phạm nhân (…) Lưỡi gươm thảm sầu đâm thâu trái tim
Mẹ. Niềm hy vọng có chết không? (…) Trong đức tin này, một đức tin, thậm chí
trong sự tăm tối của ngày Thứ Bảy
Thánh, cũng mang lấy niềm hy vọng vững chắc không chuyển lay. Mẹ làm thành con đường của Mẹ tới
buổi sáng Phục sinh. (…) Như vậy, Mẹ vẫn còn ở giữa các môn đệ như người mẹ của
họ, người mẹ của hy vọng. Lạy Mẹ Maria rất thánh, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ chúng
con, xin dạy chúng con tin, hy vọng và
yêu mến với mẹ.
Nếu thoạt tiên chúng ta thường quen nói về một “phúc
lành của đức tin”, nay chúng ta có thể nói về một “phúc lành của đức cậy”, mà Đức
Maria cũng làm thành của mình: “phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” (Mt 11,6). Bản miêu tả mà thánh Phaolô
nói về Abraham, tuyên bố rằng “Mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông
cậy” (Rm 4,18), có thể được áp dụng với một lý lẽ lớn hơn cho Đức Maria: một
đàng bởi vì toàn đoạn văn nói về đức tin vào
Đức Giêsu Kitô phục sinh (x. Rm
4,24-25) và đàng khác, còn hơn cả trường
hợp của Abraham, Đức Maria đang đối diện với một tình trạng, nói theo nhân loại,
không còn chỗ cho hy vọng, đó là sự chết.
Có một đoạn văn rất hay, dưới hình thức của một kinh nguyện
mà Hồng y Carlo Maria Martini cống hiến cho Tổng giáo phận của mình vào dịp năm
2000. Nó đáng ta đọc và suy gẫm; ở đây cha trích dẫn một vài đoạn ý nghĩa hơn
mà thôi.
Lạy
Đức Maria, Mẹ học để chờ đợi và hy vọng. Với tin tưởng Mẹ chờ đợi sinh ra Người
Con được thiên sứ báo tin, Mẹ tiếp tục
tin vào lời của Gabriel ngay cả trong một
thời gian dài Mẹ chẳng hiểu gì; dưới thập giá, Mẹ hy vọng nghịch lại với mọi hy
vọng và cuối cùng trước nấm mồ, Mẹ qua
ngày Thứ Bảy Thánh
thông truyền niềm hy vọng vào những môn đệ đang cảm thấy lạc lõng và thất
vọng. Mẹ chiếm lấy cho họ và cho chúng con niềm an ủi của đức cậy, mà có thể được
gọi là 'niềm an ủi của trái tim' (…) Lạy Mẹ của niềm hy vọng, trong ngày Thứ Bảy thánh, Mẹ kiên nhẫn chờ đợi trong an bình và
Mẹ dạy chúng con kiên nhẫn và trung kiên nhìn vào điều mà chúng con đang trải
qua trong ngày Thứ Bảy của lịch sử khi
nhiều người, ngay cả Kitô hữu, bị cám dỗ để không còn hy vọng vào sự sống đời đời
hay vào cuộc quang lâm của Chúa (…) Đức tin bé nhỏ chúng con có trong khi đọc
các Dấu chỉ về sự hiện diện của Thiên Chúa trong lịch sử trở thành sự bất kiên
nhẫn và trốn chạy, giống như đã xảy ra đối với hai môn đệ Emmaus; khi đối diện
với một vài dấu của Chúa Phục Sinh, họ
đã không có sức mạnh để chờ đợi xem các sự việc đã xoay chuyển như thế nào
nhưng đã rời Giêrusalem (x. Lc 24,13tt). Chúng con cầu xin Mẹ là Mẹ của niềm hy
vọng và sự kiên nhẫn: như Con của Mẹ đã xót thương chúng con, đến và tìm gặp
chúng con trên đường trốn chạy và bất kiên nhẫn của chúng con, như Ngài đã làm
với hai môn đệ Emmaus. Xin Mẹ cầu cho chúng con để một lần nữa lời Ngài hâm
nóng tâm hồn chúng con (x. Lc 24,32).
Nếu đức tin được liên kết chặt chẽ với vâng phục, và
được diễn đạt trong vâng phục, liệu chúng ta lại không thể tìm thấy mối liên hệ
cũng mật thiết giữa niềm hy vọng và
nghèo khó sao? Thực vậy, chỉ những ai không cảm thấy thỏa mãn mới có thể
“hy vọng”; và chỉ những ai biết rằng “cái tốt nhất chưa đến” mới có thể thật sự
hy vọng.
Thật ý nghĩa, tất cả những mối phúc vươn đến một tương
lai của những lời hứa; đồng thời chúng trở thành những lời khuyên nghiêm chỉnh
(chứ không phải là những lời đe dọa) cho những ai sở hữu mọi sự song lại đóng
mình trước tương lai được đức cậy chỉ tới (x. Lc 6,24-26). Nói cách khác, chỉ một
ai nhận biết chính mình nghèo khó và vun trồng nơi chính mình trái tim của một
người nghèo mới có thể nuôi dưỡng niềm hy vọng! Nhưng thái độ nội tâm này không
nảy sinh từ ý thức rằng mình có rất ít của cải, nhưng từ sự vĩ đại của những điều
mà chúng ta đang chờ đợi. Chính Thiên Chúa được chờ đợi như Sự Thiện Tối Cao mới
làm chúng ta nên nghèo và như vậy đầy niềm hy vọng.
Cha nghĩ rằng ở đây ta có thể khám phá ra đường kết nối
cực kỳ phong phú để khai thác khi chiêm ngắm cha Bosco của chúng ta. Ngài vững vàng tin vào Chúa
quan phòng và vào sự che chở từ mẫu của Đức Maria; điều đó được minh chứng
trong một khả năng phi thường vươn tới
hy vọng: không phải theo nghĩa tiêu cực của "chờ đợi" những điều
xảy ra, nhưng theo nghĩa đi xuống để làm việc bởi vì “những điều xảy ra”, một bằng
chứng không mập mờ của đức ái mục tử của ngài (về điều này chúng ta sẽ nói
sau). Nơi Don Bosco chúng ta tìm thấy một khả năng phi thường để thay đổi những
khó khăn và chướng ngại thành những thách đố và lý lẽ để tiếp tục tiến tới phía
trước. Như một người con đích thực của Don Bosco, người Salêdiêng “không nhường
bước cho thất đảm khi đối diện với những khó khăn (…) và không than khóc thời đại
mình” (HL 17); như một vị tông đồ và nhà giáo dục, họ “loan báo 'trời mới đất mới”
cho thanh thiếu niên, thức tỉnh nơi các em những nỗ lực dấn thân và niềm vui của
đức Cậy” (HL 63).
3.3. “Đức Maria, khuôn mẫu của
đức ái mục tử” (HL 92).
Nếu trong ba nhân đức đối thần, “cao trọng hơn cả là đức
mến” (1 Cr 13,13) thì hẳn nhiên đức tin
và đức cậy dẫn tới chính đức mến, và chắc chắn Đức Maria là một gương mẫu và
khuôn mẫu tuyệt vời của đức mến. Đón nhận lời tựa đề trong cuốn sách nổi tiếng
của Hans Urs von Balthasar, “Chỉ Tình yêu mới đáng tin” chúng ta có thể áp dụng những lời ấy trước hết cho Đức Nữ Trinh
cực thánh: chỉ Thiên Chúa Tình Yêu mới đem đến ý nghĩa cho đức tin và nuôi dưỡng
niềm hy vọng của Mẹ.
Về điều này những lời của Hiến Luật chúng ta, dù ngắn
ngủi, lại có ý nghĩa đặc biệt. Trên hết trong mối liên hệ với Thiên Chúa: “Đức Maria Vô nhiễm
Phù hộ các Giáo hữu giáo dục chúng ta biết tận hiến trọn vẹn cho Chúa” (HL 92).
Tuy nhiên thái độ đối thần này lại không thể tách biệt khỏi tình yêu tha nhân của
chúng ta: “Chúng ta chiêm ngắm và bắt chước (…) mối ân cần lo lắng của Mẹ cho
những người nghèo khó”, Mẹ “thông ban cho ta lòng can đảm phục vụ các anh chị
em chúng ta”, “khuôn mẫu của cầu nguyện và đức ái mục tử” (HL 92).
Những quy chiếu tin mừng thật rõ ràng: trước hết, mối
liên hệ mật thiết (không chỉ bởi vì mối
liên hệ ấy theo sau ngay trong bản văn của Luca) giữa kinh nghiệm về Thiên Chúa
trong Truyền tin và hành trình mà Đức Maria “vội vã” đi thăm và phục vụ bà chị
Elisabeth. Đúng hơn, “dấu chỉ” mà thiên sứ Gabriel cho Đức Nữ Trinh không phải là một xác quyết lý thuyết mang tính thuyết phục như
để giảm thiểu niềm tin tưởng của Mẹ vào Thiên Chúa, nhưng là lời mời gọi hướng
tới sứ mệnh, “để trình bày”, để đem Đức Giêsu, Đấng mang niềm vui, tới cho bà
Elisabeth và gia đình, kể cả em bé Gioan Tẩy giả chưa được sinh ra.
Khi chiêm ngắm “Đức Maria quan tâm lo lắng cho những kẻ
thiếu thốn”, chúng ta sẽ nghĩ ngay đến trình thuật Tin Mừng Gioan về tiệc cưới tại Cana. Không bỏ
qua những ý nghĩa biểu tượng và thần học của “dấu chỉ” đầu tiên ấy được Đức
Giêsu thực hiện theo Tin Mừng thứ tư
(đã được nêu bật từ các giáo phụ đầu tiên cho tới những nhà chú giải và
học giả gần đây nhất), chúng ta phải nhận thức rõ hơn cái ý nghĩa đơn giản và
ngay tức khắc trong trình thuật ấy. Trong đó, chúng ta có thể khám phá ra Đức
Maria không chỉ lo lắng và quan tâm đến những nhu cầu của kẻ khác, nhưng Mẹ còn
nhạy bén đối với những kẻ chịu trách nhiệm về tình trạng đó, và đối với chính Đức
Giêsu. Nhấn mạnh đến khía cạnh “Salêdiêng” của phép lạ này thật đúng chỗ: “dấu
chỉ” đầu tiên của Đức Giêsu được dành cho niềm vui của những ngày lễ.
Nhưng trên hết, nhìn vào khía cạnh cốt lõi này trong đời
sống của Đức Maria và mọi Kitô hữu, chúng ta không thể giới hạn chính mình vào
những trích dẫn biệt lập hay những khía cạnh không đầy đủ. “Ân sủng của Thiên
Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người” (Tt 2,11); “Nhưng Thiên
Chúa, Ðấng cứu độ chúng ta, đã biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Người
đối với nhân loại (filanthropia trong bản Hy lạp)” (Tt 3,4). Nếu chúng ta
nghiêm chỉnh chấp nhận sự kiện rằng kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa không gì
khác hơn là sự biểu lộ dứt khoát và tròn đầy của Tình Yêu Ngài, và nếu Đức
Maria cộng tác một cách độc đáo vào sự cứu độ chúng ta, thì chúng ta cần phải
khảo sát hơn sự cộng tác này từ viễn cảnh của Tình Yêu.
Đúng vậy, thần học ngày nay khởi đi từ các chứng từ nhất
trí của Tân ước, nhấn mạnh đến việc đặt cội rễ của ơn cứu độ chúng ta trong Ý
Muốn yêu thương của Chúa Cha, Đấng nhờ Thánh Thần hoạt động, đã sai Con Ngài
sinh bởi Đức Maria đến với chúng ta; thần học này nhấn mạnh nhiều đến tính chất Ba Ngôi của mầu nhiệm Vượt Qua. Hân hoan và đầy
kinh ngạc, lời Công bố Tin Mừng Phục
Sinh tuyên bố khi ngỏ lời với
Chúa Cha (gợi lên Rm 8,32):
Ôi! Ân tình Cha thật kỳ diệu,
Ôi! Ân phúc Cha thật khôn lường.
Để cứu dân lầm than nô lệ, Cha đã thí Con Một quý yêu.
Từ quan điểm này, sự “hủy mình ra không” của Cha, Đấng
cho chúng ta mọi sự trong Người (x. Rm 8,32) tương ứng với “sự hủy mình ra
không” của Con, Đấng “tước bỏ” chính phận
Thiên Chúa của mình, đảm nhận lấy phận người, làm cho mình thành vâng phục cho
đến chết, chết trên thập giá (x. Pl 2,5 -8).
Vào thời khắc quyết định của cuộc đời, Đức Giêsu “đã
yêu những kẻ thuộc về mình còn ở trần gian, Ngài đã yêu họ đến cùng” (Ga 13,1),
căn cứ vào “một người không thể có tình yêu vĩ đại hơn là hiến mạng sống vì bạn
hữu của mình” (Ga 15,13); ở đấy, chúng ta tìm thấy Đức Maria ở dưới chân thập
giá: chúng ta có vỏn vẹn ba câu nhưng với một sức mạnh đáng kinh ngạc (x. Ga
19,25-27).
Chúng ta đã quen, đúng thế, coi bản văn này như
"chúc thư" của Đức Giêsu, Đấng trao phó chính người Mẹ của mình cho
người môn đệ được yêu mến, biểu tượng cho tất cả thiện nam tín nữ đã tin vào Ngài: "Này là mẹ anh!" và
điều này lấp đầy chúng ta với niềm vui lạ thường. Nhưng điều mà ta không luôn
luôn xem xét cho đủ là Ngài muốn nói gì khi nói với Mẹ: “Hỡi Bà, này là con bà!”
khi mời gọi Mẹ chia sẻ sự từ bỏ (“kenosis”),
sự hoàn toàn hủy mình ra không của Ngài tới mức cao nhất. Thực vậy, hy sinh khó
nhất mà ta có thể đòi nơi một người mẹ là bà phải chấp nhận người khác thế vào
chỗ người con của bà. Ở đây chúng ta tìm thấy đức tin, đức cậy (nghịch với mọi
hy vọng), đức mến được diễn đạt cách triệt để. Cha thấy mình quá bạo để quy cho
Mẹ lối diễn đạt trong Tin Mừng Gioan (3,16) về Chúa Cha: “Mẹ Maria đã yêu thế
gian đến nỗi đã ban người Con Một của mình”.
Tương tự với hai nhân đức đối thần khác, ở đây chúng
ta tìm thấy ý nghĩa sâu xa nhất và phong phú nhất của đức thanh khiết thánh hiến chúng ta. Nói về
thanh khiết trước hết không có nghĩa nói
về “từ khước”; nhưng đúng hơn - như khoản HL 63 nói - về “tình yêu trở thành
một tặng phẩm”, theo gương của cha chúng ta: “Don Bosco đã sống đức thanh khiết
như tình yêu dành cho Thiên Chúa và cho
giới trẻ vốn không có giới hạn” (HL 81). Cha thích kết luận phần này với một
trong những lối diễn đạt đẹp nhất trong Luật Đời sống chúng ta: người Salêdiêng
“với lòng tín thác con thảo chạy lại với Đức Maria Vô nhiễm Phù hộ các giáo hữu, Mẹ sẽ giúp họ yêu mến như Don Bosco đã yêu mến”.
(HL 84).
4. “NHỜ SỰ CAN
THIỆP TỪ MẪU CỦA ĐỨC
MARIA THÁNH THẦN ĐÃ
KHƠI DẬY THÁNH
GIOAN BOSCO” (HL 1).
Kinh “Tin Kính” của người Salêdiêng phản ánh những xác
tín sâu xa nhất của chúng ta, mối liên hệ
giữa Thánh Thần và Đức Maria là bất
khả phân. Điều này hoàn toàn tương ứng với mạc khải Thánh Kinh
trong Tân ước. Trong đó, trước hết chúng ta tìm thấy một “sự đóng khung
mang tính chất Thần Khí học” rất ý nghĩa. Thực thế, bản văn đầu tiên trong các
bản văn mà Đức Maria xuất hiện (Lc 1,35; Cv 1,14), đã có Thánh Thần như người
chủ chốt theo một nghĩa nào đó. Trong bản văn đầu tiên ấy người ta nói rằng
chính Thần Khí làm cho sự nhập thể của Con Thiên Chúa thành có thể: “Thánh Thần
sẽ đến trên bà và quyền năng của Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà”. Vì lẽ này,
bản tuyên tín của Giáo Hội công bố: “bởi phép Chúa Thánh Thần, Ngài đã sinh bởi
Đức Trinh Nữ Maria và đã làm người”. Trong bản văn cuối cùng - Công
vụ -
người ta nói rằng sau cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu, cộng đoàn
tông đồ và “anh em của Đức Giêsu” (Cv 1,14; x. Kh 12,17) đang chờ Đấng Bảo Trợ,
tụ họp quanh Đức Maria.
Một trong những giáo sư nổi tiếng thành lập Đại học của
chúng ta ở Roma, cha Domenico Bertetto, viết:
Trong
đời sống của Đức Maria, chúng ta có thể ghi nhận ba cuộc thần hiển của Thần Khí
với hiệu quả tác thánh đặc biệt: (1) Sự Thụ thai vô nhiễm, mà từ thời khắc đầu tiên của cuộc sống trần thế
của Mẹ làm thành Ngôi vị của người Mẹ tương lai của Thiên Chúa, đền thờ của
Thánh Thần, Đấng cư ngụ trong Mẹ để chuẩn bị Mẹ cho sứ mệnh tương lai; (2) Biến cố
Truyền tin, trong đó Đức Maria rất thánh được rợp bóng (che chở), như
Hòm bia Giao ước mới, nhờ Thánh Thần bởi vì Con Thiên Chúa thụ thai làm người;
(3) Lễ Ngũ Tuần, trong đó Đức Maria cầu khẩn và vui hưởng
sự tuôn đổ hữu hình của Thánh Thần, linh hồn của Thân mình mầu nhiệm.
Đây là giải thích đi về lại tới các giáo phụ, quy chiếu
tới bản văn Gioan 19, theo đó “Giáo Hội khai sinh dưới chân thập giá”. Đức
Giêsu hấp hối "trút Thần Khí"
(paredoke to pneuma), bằng cách này kết hiệp Phục Sinh
và Ngũ Tuần; ở đây một lần nữa
chúng ta tìm thấy Đức Maria, Mẹ Đức Giêsu và Mẹ Giáo Hội được người “môn đệ được
thương mến” biểu thị.
Cha thích coi mối liên hệ giữa Thánh Thần và Đức Maria
trong ánh sáng của một bản văn khác từ Hiến Luật chúng ta, khoản 98. Khoản luật
nói đến Đức Nữ Trinh Maria trong bối cảnh đào luyện; và đáng ta gợi nhắc một lần
nữa điều này không quy chiếu đến một giai đoạn trong đời sống (“đào luyện ban đầu”)
hay bàn đến một “chiều kích” song song với những chiều kích khác, nhưng ôm ấp tất
cả các điều ấy: đó là một vấn đề hiểu biết toàn thể đời sống của người
Salêdiêng, trong tất cả mọi chiều kích của nó, trong các điều then chốt để đào
luyện, nghĩa là: được nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô Mục Tử-Nhà Giáo Dục,
theo đường lối mà Cha chúng ta đã là: “Mọi Salêdiêng được soi sáng bởi con người
Đức Kitô và Tin mừng Ngài được sống theo tinh thần của Don Bosco”.
Thật quan trọng để ghi nhận rằng khoản 98 trình bày
hai đặc tính chính yếu của đoàn sủng chúng ta:
mục tử và nhà giáo dục của giới trẻ, trước khi nhắc đến hai hình thức sống
cùng một ơn gọi thánh hiến Salêdiêng như nhau: giáo dân và linh mục. Đôi khi có
thể có một sự hiểu lầm không may về điều này như thể chỉ Salêdiêng linh mục mới
là mục tử, và người Salêdiêng sư huynh chỉ là nhà giáo dục: đây là một việc xói
mòn trực tiếp tới chính căn tính là một Salêdiêng!
Trong bối cảnh này, sự quy chiếu tới Đức Maria, chính
như là Mẹ và Bà Giáo, không chỉ nhắc nhớ
chúng ta về giấc mơ chín tuổi và sự hiện diện của Mẹ trong đời sống của Don
Bosco, nhưng đi xa hơn nhiều: nó quy chiếu
tới sứ mệnh nền tảng của Đức Maria như là Mẹ và Bà Giáo của Đức Giêsu, Con
Thiên Chúa làm người. Bản văn dường như ám chỉ tới “sự thai nghén” (gestation) của người Salêdiêng đúng thực
(“có khuynh hướng để trở thành”), theo cách thức trong đó như Đức Maria bởi quyền
năng Thánh Thần mang Đấng Cứu độ ra ánh sang. Cũng thế, Mẹ mang mỗi người chúng
ta ra ánh sáng bởi quyền năng của cùng một
Thần Khí, như những nhà giáo dục và mục
tử của giới trẻ.
5. KẾT LUẬN
Cha phải kết luận lá thư này khi mời gọi Tu Hội, và cách riêng từng hội viên, suy ngắm và
“nhập thể” vào đời sống mình lời kinh mà chúng ta mỗi ngày thân thưa với Đức
Trinh Nữ Maria rất thánh. Đây là một bản văn có giá trị, một kế hoạch đời sống
chân thật, vốn giúp chúng ta mỗi ngày canh tân ý nghĩa đời sống Salêdiêng chúng
ta đúng theo “bí quyết của linh đạo Maria”. Đây là một lời kinh, vừa đơn giản vừa
sâu xa, trong đó, đang khi tuyên xưng tình yêu “con thảo và mạnh mẽ" chúng
ta dành cho Mẹ, chúng ta lại cam kết đem ra thực hành "chương trình"
của ơn gọi chúng ta: sứ mệnh Salêdiêng.
Chia sẻ sự nhấn mạnh (được đặt nền thần học) của vị tiền nhiệm rất đáng mến của cha, cha Egidio
Vigano, về ý nghĩa của sự thánh hiến
như một công việc riêng của Thiên Chúa, chứ không phải như một hành vi
nhân loại, thậm chí không liên hệ với Người (x. HL 24: “Cha đã thánh hiến
con cho chính Cha. Con dâng mình hoàn toàn cho Cha”), cha xin nhắc lại rằng ở đây chúng ta không bàn đến một lời kinh
thánh hiến cho Đức Maria, nhưng đến sự
phó thác trìu mến, như một em bé phó mình cho vòng tay yêu thương của mẹ
mình.
Khi kêu cầu Đức Maria Vô nhiễm Phù hộ các giáo hữu (HL 92), chúng ta gợi nhắc tước hiệu mà qua đó Công đồng Vatican II
trình bày Mẹ: “Mẹ Giáo Hội” (x. Kh 12; Lc 62tt). Trong Giáo Hội, Thánh Thần
khơi dậy “qua sự can thiệp từ mẫu của Đức Maria” (HL 1) Don Bosco và qua
ngài, Tu Hội và Gia đình Salêdiêng. Như Mẹ đã là thế đối với
cha Bosco của chúng ta, thì đối với chúng ta, Đức Maria tiếp tục là “sự khởi hứng và nâng đỡ” (trong HL 8, chúng ta đọc:
Đức Trinh Nữ Maria đã chỉ cho Don Bosco cánh đồng làm việc - là
người hướng dẫn và trợ
giúp liên tục). Vì thế đây không phải là một câu hỏi chỉ về một thái độ của lòng tôn kính cá nhân mà thôi
- hẳn chắc, đáng khen và đáng khích lệ - nhưng về sự chiêm ngắm Đức Maria trong
kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, và cách
riêng trong việc thực thi sứ mệnh chúng
ta. Vì vậy chúng ta hứa với Đức Maria “trung thành với ơn gọi Salêdiêng … để
luôn làm việc”.
Sứ mệnh không hệ tại “làm các sự việc”, nó không thể bị
giản lược vào việc tiêu hao chính mình theo một thứ cách thức chung chung vì phần
ích của giới trẻ, cách riêng những em nghèo nhất, trong thực tại nó là một vấn
đề của sự vun trồng “sự
phát triển toàn diện”, từ viễn cảnh của sứ mệnh tông đồ, vốn quyết định
sự cứu độ của chúng như là mục đích tối
hậu của mình. (x. HL 12). “Vì vinh quang cao cả Chúa hơn và phần rỗi thế gian”: là điều mà trong lá thư triệu tập Tổng
Tu Nghị 26 như bí quyết (của Don Bosco)
về mục đích của hoạt động của ngài. “Khi
hiến mình cho phần tác vụ thánh này, cha
muốn tận hiến tất cả lao nhọc của
cha cho
Thiên Chúa được vinh quang hơn và cứu rỗi các linh hồn; cha muốn làm việc
để sản sinh ra những công dân tốt ở dưới
thế này hầu một ngày kia chúng có thể là những công dân xứng đáng của thiên đàng”. Hiển
nhiên, “hứa” với Đức Maria điều này, và qua sự
chuyển cầu của Mẹ, Chủ của mùa gặt,
cùng một lúc là lời xin khiêm tốn: “không có Thầy anh em không thể làm gì." Chúa Giêsu nói chúng ta như thế. Khi chơi chữ một cách nào đó, đấy không phải là một “lời hứa
theo thần thoại Prometheus”, vì thực sự chúng ta biết - như chúng ta biết -như
chúng ta thốt lên ở cuối kinh nguyện đó - bằng
việc phụng sự Chúa, chúng ta trở nên hữu ích cho Ngài, không chỉ như những tôi tớ: như chính Ngài muốn thế (x.
Ga 15,15).
Vì sứ mệnh Salêdiêng là một tiến trình vốn khai sinh từ
đức tin và từ sự vâng phục Thiên Chúa, nên sứ mệnh ấy được diễn tả trong cầu
nguyện và như lời cầu nguyện. Sau khi đã nại tới sự can thiệp từ mẫu của Đức Maria, chúng ta khẩn cầu
Mẹ giúp chúng ta “mang lấy mọi sự trong trái tim chúng ta” với tính nhạy cảm
đoàn sủng đặc biệt của chúng ta (x. HL 11): Giáo Hội, Tu Hội và Gia đình Salêdiêng,
cách riêng giới trẻ và những em nghèo khổ giữa những người trẻ này, là những người sứ mệnh Salêdiêng tiên vàn nhắm
tới. Cuối cùng, chúng ta kêu cầu Mẹ cho toàn thể nhân loại. “Sự ưu tiên của
kinh nguyện” này nhắc nhớ chúng ta tới gương lành của Đức Giêsu: trước khi hiến
mình cho mọi người, Ngài cầu xin Chúa
Cha cho mọi người và thốt lên lời cầu xin đơn giản nhất và sâu xa nhất có thể
xuất ra từ một trái tim cùng lúc là thần linh và nhân loại: “Lạy Cha, con muốn
rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con” (Ga
17,24). Không ai bị loại khỏi ơn cứu độ
của Đức Kitô… và lời cầu nguyện của Ngài. Do đó, họ cũng không bị loại khỏi lời
cầu nguyện mang tính tông đồ của chúng ta.
Theo đó, chúng ta khẩn cầu Đức Maria như người
Mẹ và Bà giáo (x. HL 98). Chúng ta cầu xin Mẹ, như Mẹ đã là thế nào với
Don Bosco, thì Mẹ cũng là như vậy với mỗi
người chúng ta. Cha tin rằng chúng ta có thể
suy tư về lời kinh nguyện này theo ánh sáng của giấc mơ mười
viên ngọc, vốn tạo thành bức “ảnh thánh” (icon)
của Tổng Tu Nghị 27 sắp tới: phần trước của tấm áo choàng (“sự hiền dịu và sự phục vụ
tha nhân hết lòng”) được nâng đỡ
bởi phần sau mà có lẽ thoạt nhìn, ta không nhận ra: 2sự kết hợp với
Thiên Chúa, sự trong sạch, khiêm nhường
và nghèo khó”. Điều này làm cho việc thực thi sứ mệnh chúng ta
được hiểu như chính “lòng thương mến”
và “sự tận hiến toàn vẹn”, có thể
thực hiện, chứ không chỉ đơn thuần là sách lược hay phương thế giáo dục
- mục vụ, nhằm hoàn thành những mục
đích của chúng ta.
Cả hai phần áo
choàng được được giữ lại với nhau nhờ hai viên ngọc làm việc và tiết độ: và
điều này tức khắc nhắc nhở chúng ta về Tổng
Tu Nghị sắp tới, tập trung vào lối sống tận căn của người Salêdiêng trước Tin Mừng.
Khi kết luận những thái độ nền tảng này trong đó Don Bosco là mẫu mực của
chúng ta, chúng ta không thể quên
chiều kích Giáo Hội: ngày nay “trung thành với Đức Giáo hoàng và các Giám mục
trong Giáo Hội”, vốn cần thiết hơn bao giờ hết.
Kết luận của lời kinh đó đưa chúng ta về lại thuở
ban đầu và rõ ràng làm cho nó nên trọn. Nếu sứ mệnh
có mục đích là vinh quang cao cả hơn của
Thiên Chúa và phần rỗi các linh hồn, cũng như công việc của chúng ta là “trung
thành và quảng đại phục vụ Thiên Chúa cho đến cùng”, thì mục đích tối hậu của
điều đó không thể bị giới hạn vào sự mãn nguyện nhân loại hay trần thế: chúng ta
chỉ có thể tìm gặp điều ấy “trong nhà Cha trên trời”. Ở đây chúng ta cũng tìm
thấy phong cách đặc biệt Salêdiêng với
hai từ ngữ cốt yếu: niềm vui và cùng chung sống; điều này chỉ
có thể tìm được ở mức cao nhất
trong Thiên Chúa và trong đời sống vĩnh cửu.
Anh em hội viên
thân mến, cha cống hiến cho anh em lá thư cha đã từng ấp ủ trong tâm hồn một thời gian. Cha tin tưởng rằng
lá thư này sẽ là chất kích thích mạnh mẽ cho cuộc canh tân thiêng liêng và sâu
xa, trên bình diện cá nhân, cộng thể và Tu hội. Thiên Chúa đang mời gọi chúng
ta thực hiện điều này qua việc cử hành đệ nhị bách chu
niên ngày sinh của cha Bosco thân yêu của chúng ta và Tổng Tu Nghị 27. Như người
môn đệ được thương mến, chúng ta hãy đón Mẹ
Maria như tặng phẩm của Chúa từ thập giá, và đưa Mẹ về nhà
mình. Ước gì Mẹ là Mẹ và là Bà Giáo của chúng ta như Mẹ đã là thế đối
với Don Bosco. Cha trao phó tất cả và từng
người trong anh em
cho Đức Maria Vô Nhiễm Phù hộ các
Giáo hữu, để Mẹ từ mẫu chăm sóc và hướng
dẫn anh em.
Đại lễ Đức Mẹ Lên Trời, Roma, ngày 15 tháng 08 năm 2012
Lm. Pascual Chávez Villanueva, SDB
Bề Trên Cả dòng Don Bosco
(Pascual Chávez Villanueva SDB, "ecco la tua madre", in ACG 414 [2012])
G.B. LEMOYNE, BM XVII, p. 471.
EGIDIO VIGANÒ, Mary
is renewing the Salesian Family of Don Bosco, ACS n. 289 (1978), p. 5.
JOHN BOSCO, Memoirs of the Oratory (Trans. Daniel
Lyons SDB), Don Bosco Publications, New Rochelle, New York 1989. P. 18-19.
JOHN BOSCO, Memoirs
of the Oratory, p. 134.
PASCUAL CHÁVEZ, “He
summoned those he wanted and they came to him” (Mk 3. 13). On the 150th
anniversary of the founding of the Salesian Congregation, AGC 404 (2009)
p.29.
PASCUAL CHÁVEZ,
“L'Immacolata e Don Bosco” in: Sacro
Cuore, Bologna, December 2011.
BENEDICT XVI, “They
shall look on Him whom they have pierced”. Message for Lent 2007.
ALOI MULLER, “Maria nell'Evento Cristo”, in: J .
FEINER e M. LOEHRER ed., Queriniana, Brescia, 1971, vol. VI, p. 536.
Kinh Tiền Tụng lễ Chúa Lên Trời I.
Cf. HANS URS
VON BALTHASAR, Teresa de Lisieux.
Historia de una Misión, Barcelona, ed. Herder, 1957.
Cf. TERESA DE
LISIEUX, Obras Completas, Burgos, Ed.
Monte Carmelo, 6a.ed.,1984, pp.952-960.
The project of life of the Salesians of Don Bosco. A
Guide to the Salesian Constitutions, Rome 1986, p. 709.
PASCUAL CHÁVEZ, The Word of God and Salesian life
today, AGC n. 386 (2004), p. 51.
PASCUAL CHÁVEZ, “Da
mihi animas, cetera tolle” Charismatic identity and sharing apostolic zeal.
Starting again from Don Bosco to reawaken the heart of every Salesian”, AGC
394 (2006) p. 26.
D. BERTETTO, Spiritualità salesiana. Meditazioni per
tutti i giorni dell'anno, LAS-Roma, 1974, p. 1058.
PASCUAL CHÁVEZ, “Da
mihi animas, cetera tolle” Charismatic identity and sharing apostolic zeal.
Starting again from Don Bosco to reawaken the heart of every Salesian, AGC
394 (2006), p. 38.