NGUỒN GỐC CON NGƯỜI
KHOA HỌC, TRIẾT HỌC VÀ ĐỨC TIN
Vấn nạn về con người là một trong những vấn
nạn lớn của nghiên cứu khoa học, triết học và tôn giáo. Con người là ai? Con
người bắt nguồn từ đâu và sẽ đi về đâu? Ý nghĩa của cuộc đời con người là gì?
Đó là những câu hỏi khiến con người suy tư, tra vấn, chứ không chỉ dừng lại ở
những vấn đề và những nhu cầu trước mắt. Đó cũng là lý do mà khoa học, triết học
và đức tin được mời gọi để nghiên cứu về vấn nạn nguồn gốc con người.
Tiến hóa vẫn còn là một vấn đề mở ra cho đối
thoại giữa khoa học và đức tin. Jacques Monod quan niệm trong tác phẩm Ngẫu nhiên và tất yếu rằng: "Quan
niệm trước đây không còn đứng vững, cuối cùng con người biết rằng con người xuất
hiện cách ngẫu nhiên trong vũ trụ".[1] Còn ĐTC Biển Đức XVI khẳng định ngay từ
khởi đầu triều đại Giáo Hoàng của ngài rằng: "Chúng
ta không phải là sản phẩm ngẫu nhiên và vô nghĩa của tiến hóa. Mỗi người chúng
ta là kết quả của một sự suy tư của Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta được mong đợi,
mỗi người chúng ta được yêu mến".[2] Đây là hai khóe nhìn khác biệt và trái ngược nhau khiến chúng ta không thể
bàng quan.
1. Tiến hóa: khoa học và đức tin
Vấn nạn về nguồn gốc con người do tiến hóa
xem ra khiến cho khoa học và đức tin mâu thuẫn với nhau. Nhiều tác giả đã viết
về vấn đề này. Thuyết tiến hóa của Charles Darwin, giống như trường hợp của
Galilê, cho thấy rõ ràng có sự mâu thuẫn giữa khoa học và đức tin. Trong cả hai
trường hợp, chúng ta thấy một lý thuyết khoa học trái ngược với đức tin công
giáo: Galilê miêu tả vũ trụ khác với Kinh Thánh, còn Darwin miêu tả nguồn gốc
con người khác với tường thuật Kinh Thánh về việc tạo dựng. Tuy nhiên, có những
khác biệt giữa hai trường hợp này. Cho dẫu mang tính phổ quát hơn, nhưng trường
hợp của Galilê vẫn có những giới hạn: dư âm của nó chỉ ảnh hưởng trong thế giới
Công Giáo bảo thủ, chống lại phong trào cải cách, và khoảng giữa thế kỷ XVIII
khi lý thuyết của Newton được Châu Âu đón nhận, thì vũ trụ học của Copernic
cũng được chấp nhận. Vào năm 1757, những tác phẩm của Copernic cấm xuất bản từ
năm 1616 đã được đưa ra ngoài danh mục những quyển sách không được xuất bản, cho
dẫu những tác phẩm của Copernic, Kepler và Galileo vẫn còn trong danh mục đó suốt
một thế kỷ.
Những vấn nạn liên quan đến thuyết tiến
hóa có ảnh hưởng rất lớn trong thế giới Kitô giáo và Tin Lành và ngay cả trong
thế giới Hồi Giáo. Thuyết tiến hóa ngày nay vẫn khiến cho con người tranh cãi với
nhau. Trường hợp Galileo làm nổi lên vấn đề về vị trí con người trong vũ trụ
(trái đất không còn là trung tâm của vũ trụ nữa), nhưng thuyết tiến hóa tiếp chạm
gần chúng ta nhất: liên quan trực tiếp đến con người chúng ta, đến sự hiện hữu
của con người chúng ta.
2. Giáo Hội đón nhận thuyết tiến hóa
Có phải chúng ta đang bàn đến một sự mâu
thuẫn thực sự không? Có sự đối nghịch thực sự giữa giáo huấn của Giáo Hội đối với
những lý giải của thuyết tiến hóa về nguồn gốc con người không? Nếu khởi đầu có
một phản ứng thực sự mạnh mẽ của Giáo Hội Công Giáo chống lại thuyết tiến hóa,
thì những nghiên cứu của Giáo Hội về vấn đề này ngày ngay đã có những bước tiến
rõ rệt.[3] Quả đúng là ngay từ đầu có phản ứng của
các thần học gia, những mục tử và giáo dân chống lại thuyết tiến hóa của
Darwin, là lý thuyết được xem như trái ngược với giáo lý về việc Thiên Chúa trực tiếp sáng tạo con người. Nhưng cũng
có không ít tác giả công giáo ngay từ đầu cũng bảo vệ sự tương hợp giữa thuyết
tiến hóa và thần học về sáng tạo.[4] Những đối kháng đến từ những quan niệm
trái ngược nhau, và cũng đến từ việc thuyết tiến hóa được trình bày như là một
học thuyết chống tôn giáo thời bấy giờ. Tuy nhiên, cũng nên biết rằng những
nghiên cứu tiên khởi về vấn đề này được trình lên Tòa Thánh và được Tòa Thánh
nghiên cứu cách cẩn thận và khôn ngoan, và không có một kết án trực tiếp công
khai nào đối với thuyết tiến hóa của Darwin.
Việc Thiên Chúa sáng tạo trực tiếp con người
(còn gọi là sáng tạo đặc biệt) là vấn
đề chính trong những thảo luận và tranh cãi. Vào đầu thế kỷ XX, xuất hiện những
nghiên cứu và suy tư thần học về vấn đề này cách sâu xa và nghiêm túc. Vào khoảng
thập niên 30 nhiều ý kiến cho rằng thuyết tiến hóa không có gì trái ngược với đức
tin về việc tạo dựng.[5] Chúng ta cũng cần nhớ rằng trong những
năm này xuất hiện sự tổng hợp về thuyết
tiến hóa có khả năng hòa hợp thuyết tiến hóa của Darwin và quan niệm sinh học
của Mendel (và sau đó là quan niệm sinh học phân tử), và vì thế bước đầu mở ra
con đường đối thoại và vượt qua thời gian dài ảnh hưởng của thuyết Darwin.[6]
Khoảng giữa thế kỷ XX chúng ta có thể nói
rằng chúng ta đã vượt qua hoàn toàn những trái ngược về mặt tín lý. Vào năm
1950, ĐTC Piô XII khẳng định rằng "Giáo Hội không ngăn cấm việc nghiên
cứu và tranh luận về học thuyết tiến hóa, nghĩa là về nguồn gốc thân xác con
người từ sinh vật có sẵn trước".[7] Đây chính
là tuyên bố chính thức của Giáo Hội khẳng định rằng có sự tương hợp giữa tiến
hóa con người và việc sáng tạo. Nhưng ĐTC Piô XII cũng đưa ra một điều kiện:
"Đức tin công giáo dạy phải tin linh hồn con người do Thiên Chúa trực tiếp
tạo dựng".[8] Điều này
không được hiểu như là một định luật tiến hóa sinh học, bởi vì linh hồn con
người không thể được hiểu như một "thành tố" vật chất hay một cơ quan,
cũng không phải là một nguyên lý "sự sống" theo đó những hoạt động
của nó hệ tại ở những nguyên nhân thực nghiệm. Không chỉ linh hồn của
"Ađam", con người đầu tiên, mà mỗi một linh hồn con người đều do Thiên
Chúa tạo dựng trực tiếp; có nghĩa là linh hồn của mọi đứa trẻ đều do Thiên Chúa
trực tiếp tạo dựng, cho dẫu thân xác đến từ cha mẹ theo định luật vật lý sinh
học để duy trì sự tiếp nối trong sinh học.
ĐTC Piô XII
thêm rằng thuyết tiến hóa chỉ là một lý thuyết, một giả thuyết, chứ
không phải là một định lý khoa học đã được chứng minh. Tiếp theo đó, sự phát
triển của nền sinh học phân tử đã giúp hiểu rõ hơn nền tảng khoa học của thuyết
tiến hóa. Vào năm 1996, ĐTC Gioan Phaolô II trong bài nói chuyện với Hàn Lâm
Viện Giáo Hoàng về Khoa Học, sau khi trích dẫn lời của ĐTC Piô XII, thêm rằng
"Một nửa thế kỷ sau khi Thông Điệp ra mắt công chúng, những sự hiểu biết
mới dẫn tới rằng thuyết tiến hóa không chỉ là một giả thuyết",[9] và ĐTC giải
thích thêm: "Điều đáng chú ý là thuyết tiến hóa được nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm, và theo đó hàng loạt những khám phá mới do những ngành khoa học khác
nhau. Sự tương đồng của những khám phá này có lợi cho thuyết tiến hóa".[10] Theo như lời của
ĐTC Gioan Phaolô II, chúng ta có thể nói rằng thuyết tiến hóa được chấp nhận giống
như những lý thuyết khoa học khác, như thuyết vạn vật hấp dẫn, thuyết tương đối
hay thuyết cơ học lượng tử. Dĩ nhiên, chúng ta cũng cần tránh những lý giải và
cắt nghĩa vật chất về những chiều kích thiêng liêng và siêu hình, và về Thiên
Chúa Đấng sáng tạo, theo như lối cắt nghĩa của thuyết tiến hóa.
3. Một sự khủng hoảng mới?
Ngày nay rõ
ràng có một sự tương hợp giữa nguồn gốc tiến hóa của con người và giáo huấn của
Giáo Hội về sáng tạo. Nhưng những tranh luận lại nổi lên trong thời gian gần
đây, đặc biệt khi Hồng Y Christoph Schönborn viết một bài
tham luận ngắn trên New York Times vào ngày 7 tháng 7 năm 2005, làm nghi
ngờ rằng thuyết tiến hóa, theo như ngài gọi là "thuyết tân Darwin",
có tương hợp được với đức tin Kitô giáo hay không? "Có thể thuyết tiến hóa
đúng theo nghĩa là có một nguồn gốc chung, nhưng tiến hóa theo nghĩa tân - Darwin,
là một tiến trình biến thái ngẫu nhiên và chọn lọc tự nhiên không được hướng dẫn
và không có một kế hoạch thì không thể".[11]
Mục đích nền
tảng của bài tham luận, như chính HY Schönborn khẳng định sau này,[12] là bảo vệ
khả năng của lý trí con người thụ tạo có thể hướng đến Thiên Chúa. Nếu tiến hóa
được hiểu như là lý giải duy nhất khả thể về thực tại, bỏ qua những chiều kích
thiêng liêng và siêu nghiệm, đồng thời cho rằng ngẫu nhiên thuần túy là nguyên
nhân duy nhất của con người, thì rõ ràng chúng ta đang đứng trước một quan niệm
trái ngược với đức tin công giáo. Tuy nhiên, HY Schönborn cũng đưa ra một ý kiến chung
về thuyết Thiết Kế Thông Minh (Intelligent Design). Thuyết này nảy sinh
ở USA từ cuối thập niên 80, chấp nhận hiện tượng tiến hóa, cho rằng thuyết tổng
hợp về tiến hóa hay tân - Darwin dựa trên sự chọn lọc tự nhiên do biến thái
ngẫu nhiên thì thiếu chắc chắn.[13] Theo thuyết
Thiết Kế Thông Minh, những dữ kiện sinh học cho thấy có sự hiện hữu một kế
hoạch đòi hòi một nguyên nhân tác thành. Vì thế, sự lý giải khoa học về tiến
hóa phải giả định một kế hoạch thông minh.
Chúng ta
không thể dành nhiều thời gian thảo luận vấn đề này ở đây, là vấn đề đã được
những học giả đối lập xem như sự phục hưng của thuyết duy tạo dựng trường phái
USA nổi lên từ thập niên 20 cho rằng quan điểm sáng tạo khoa học đối
nghịch với thuyết tiến hóa. Quan điểm sáng tạo khoa học đòi hỏi phải
kiểm chứng những dữ kiện thực nghiệm của việc sáng tạo trực tiếp của những
giống loài động vật và cả việc hình thành nên vũ trụ địa lý theo như những gì
đã viết ra trong sách Sáng Thế. Thuyết Thiết Kế Thông Minh cho thấy những vấn
nạn lớn về nhận thức luận. Có khi họ khẳng định sự hiện hữu của một sự
"ngắt quãng" trong tiến trình sinh học không thể giải thích được chỉ
với những định luật tự nhiên, nhưng đòi hỏi một sự can thiệp đặc biệt của Thiên
Chúa. Nói một cách khác, thuyết Thiết Kế Thông Minh xem ra muốn trình bày sự
sáng tạo sự sống cách "thông minh" theo lý trí thực nghiệm (mang tính
khoa học), mà không cần hiểu rằng họ đang trình bày sai ý nghĩa của sự sáng tạo
và Đấng Tạo Hóa.
4. Khái niệm "sáng tạo" và việc nghiên cứu về nguồn gốc.
Trong suy tư
về nguồn gốc con người cũng cần nhắc nhớ rằng khái niệm "tạo dựng"
phải được hiểu theo nghĩa thần học. Khẳng định rằng vũ trụ này được tạo dựng có
nghĩa là tất cả những gì hiện hữu đều lệ thuộc vào Thiên Chúa: lý do tối hậu
của hữu thể chính là Thiên Chúa. Thế giới là kết quả bởi "Lời" Thiên
Chúa phán ra, nghĩa là do lòng yêu thương nhân hậu, chứ không phải do tất yếu
tính, cũng không phải do một tiến trình thiết kế và sản sinh khó khăn. Vì thế,
chúng ta khẳng định vũ trụ được tạo dựng từ hư vô (ex nihilo). Đàng
khác, sự kiện được tạo dựng bởi "Lời" khiến vũ trụ trở thành một thực
tại trật tự và hợp lý.
Trong quan
niệm Kitô giáo về tạo dựng, Thiên Chúa siêu vượt trên thế giới, và không hòa
lẫn với thế giới. Chúng ta có thể nói rằng tạo dựng thế giới, Thiên Chúa để cho
vũ trụ trở thành một thực tại độc lập. Thiên Chúa là Thiên Chúa ngôi vị, tạo
dựng cách tự do và tạo dựng người nam và người nữ giống hình ảnh Ngài.
Như vậy,
trong khái niệm "tạo dựng" này, chúng ta không được hiểu như một ý
tưởng của sự bắt đầu hay hiểu "nguồn gốc theo thời gian". Khẳng định
rằng vũ trụ được tạo dựng bởi Thiên Chúa, hay con người được Thiên Chúa tạo
dựng, không có nghĩa là chỉ ra nguyên nhân của nguồn gốc theo thời gian của sự
hiện hữu con người chúng ta, nhưng sự hiện hữu của con người chúng ta cần một
lý do, cần một nền tảng tối hậu. Thiên Chúa tạo dựng nên muôn vật muôn loài và
làm cho vũ trụ hiện hữu: "Nơi Ngài chúng ta sống, chúng ta cử động và
chúng ta hiện hữu" (Cv 17, 28). Điều này rất quan trọng, bởi vì ngày nay
khi thảo luận về nguồn gốc vũ trụ và nguồn gốc con người, có những khuynh hướng
hiểu vấn đề này theo nghĩa có một khởi đầu về thời gian. Quan niệm đó cho rằng
nguồn gốc con người đòi hỏi có một giây phút nào đó bắt đầu loài người, xác
định cách thức nào chúng ta có thể khám phá "việc tạo dựng con người"
nhờ những tiến trình khảo cổ học địa chất và sinh học. Chúng ta cần lưu tâm đến
nguồn gốc con người trong tất cả các chiều kích của nó: làm cách nào trong quá
trình tiến hóa, cơ thể con người không chỉ có khả năng tự hình thành, mà còn
dưới chiều kích giá trị cao cả của hữu thể con người cá vị và tự do; làm cách
nào một hữu thể lại lệ thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa.
5. Ba thái độ đối với thuyết tiến hóa
Vấn đề nguồn
gốc con người theo thuyết tiến hóa thuộc về chiều kích lịch sử con người, nghĩa
là tìm cách nghiên cứu và khám phá những bước khác nhau và những tiến trình qua
đó vũ trụ như chúng ta biết hiện nay có một xuất xứ và có một khởi đầu. Cũng
cần lưu ý rằng trong nhiều thế kỷ khóe nhìn về lịch sử của chúng ta thiếu đi
chiều kích tiến hóa. Khóe nhìn về vũ trụ thiên về vật lý, theo đó lịch sử, theo
chiều dài thời gian hay luân hồi thời gian, cho thấy vũ trụ được hình thành bởi
những thực thể bất biến như trái đất, những vì sao và các giống loài sinh vật.
Chắc chắn
rằng Kinh Thánh và thần học cũng có một cách nhìn như thế về vũ trụ: đó là ngôn
ngữ duy nhất của tác giả và của thính giả lắng nghe và đọc Kinh Thánh. Tuy
nhiên, trong thời hiện đại khóe nhìn về vũ trụ này tiếp chạm với những dữ kiện
khoa học. Cách đặc biệt với Georges Couvier nền sinh học mô tả những giống loài
sinh vật được cấu tạo bởi những thực thể chắc chắn bất biến và vĩnh cửu, gọi là
"archetype". Những quan sát phải xác định trong những biến
thái cá biệt của archetype mô tả đích thực mỗi giống loài biệt loại và
bất biến.
Trong thế
giới hiện đại, khóe nhìn về vũ trụ theo chiều kích tiến hóa được tiếp cận dần
dần. Vào thế kỷ XVII, Niels Steensen nói trong ngành địa chất học có một lịch
sự tiến hóa. Chúng ta thấy lần đầu tiên lịch sử thế giới được nhìn theo khóe
nhìn động, là kết quả của một tiến trình biến đổi lâu dài. Đầu thế kỷ XIX,
Lamarck đưa ra thuyết tiến hóa trong sinh học. Nửa thế kỷ sau đó, thuyết chọn
lọc tự nhiên của Charles Darwin làm một cuộc cách mạng trong cách nhận thức
lịch sử sinh học của thế giới. Từ Darwin trở đi, thuyết tiến hóa trở thành một
trong những chìa khóa nền tảng của sinh học. Vào thế kỷ XX, khóe nhìn tiến hóa
về vũ trụ đi vào trong cả lãnh vực vật lý: tất cả thực tại vật lý xuất hiện như
là kết quả của một tiến trình tiến hóa từ vụ nổ "Big Bang" cho đến
hiện trạng thực tế như vũ trụ ngày nay.
Cũng không
hiếm khi khóe nhìn tiến hóa về vũ trụ mặc lấy chiều kích vật chất, cho
rằng tiến hóa vật lý và sinh học của thế giới là cách giải thích duy nhất khả
thể cho thực tại. Đây là quan niệm mà chúng ta tìm thấy trong nhiều tác phẩm
của Richard Dawkins. Theo Dawkins, khoa học sẽ phá hủy những con đường hướng
đến Thiên Chúa, và vì thế, dựa trên nền tảng khoa học và sinh học thì ngày nay
con người phải mặc lấy thái độ vô thần. Chủ thuyết tạo dựng và một cách nào đó
thuyết Thiết Kế Thông Minh hòa hợp cách nghịch lý với quan niệm vật chất khi
khẳng định rằng giải thích tiến hóa trái ngược với việc chấp nhận có một nguyên
nhân thần linh. Tuy nhiên, trong trường hợp này, họ kết luận rằng không thể
chấp nhận thuyết tiến hóa như một sự kiện (thuyết duy tạo dựng) hay ít nhất như
cơ học (thuyết Thiết Kế Thông Minh).
Thái độ thứ
ba đối với thuyết tiến hóa: chấp nhận tiến hóa như một lý thuyết sinh học, một
lý thuyết muốn tái tạo và giải thích những tiến trình hình thành của các giống
loài động vật khác nhau, ngay cả con người; đồng thời chấp nhận đức tin về tạo
dựng mặc khải cho chúng ta ý nghĩa tối hậu và sâu xa của thực tại con người:
được hình thành do tình yêu Thiên Chúa. Giống như những lý thuyết khoa học,
thuyết tiến hóa tìm cách suy tư và lý giải thực tại tự nhiên dựa trên những
định luật và những tiến trình mà chúng ta có thể khám phá. Theo đó khởi đi từ
hai giả định nền tảng là sự hiện hữu của con người và đặc tính lý trí của con
người. Nền sinh học tiến hóa không tìm cách giải thích lý do nền tảng của hữu
thể sự sống, nhưng với những nguyên lý sinh động hay những định luật - chẳng
hạn như sự chọn lọc tự nhiên hay các định luật khác - muốn khám phá ra cách thế
và lý do tại sao những giống loài lại được hình thành như chúng ta có thể thấy
hiện nay nhờ những loài đã có trước. Xét cho cùng, theo cấp độ khoa học, chúng
ta phải xây dựng một lý thuyết hình thành sự sống và hình thành vũ trụ. Thuyết
tiến hóa không thể đối nghịch với đức tin, bởi vì hoạt động thần linh cho thấy
một cấp độ khác: nền tảng tối hậu của mọi thực tại. Đức tin không lý giải cách
thế những cơ thể được hình thành như thế nào, mà chỉ làm cho sự hiện hữu của
chúng trong vũ trụ có ý nghĩa và có giá trị.
6. Những dữ kiện khảo cổ học
Ngày nay
chúng ta có rất nhiều dữ kiện về thuyết tiến hóa con người, cho dẫu những dữ
kiện này thiếu tính hệ thống, trong số đó dữ liệu hóa thạch đóng một vai trò
khá quan trọng. Sự tiến hóa của những con người đầu tiên khởi đầu từ 20 triệu
năm trước với proconsul, là một loại động vật có vú nhỏ giống như loài
động vật gặm nhấm sống trên cây. Từ đây hình thành nên những hướng tiến hóa
khác nhau làm cho những động vật này trở thành loại khỉ hiện nay, tinh tinh và
ngay cả loài người. Tuy nhiên, chúng ta lại có một khoảng trống lớn trong
"cây" tiến hóa: thời kỳ Miocene từ 12 đến 6 triệu năm trước có một khoảng
trống nơi những phát hiện hóa thạch. Rất có thể đó là những động vật có vú
sống tại những vùng đất rất ẩm ướt khó hóa thạch. Mặt khác, chúng ta có rất ít
những dữ kiện về tiến hóa của những loài khỉ lớn. Ngày nay có quan niệm cho
rằng việc hiểu được sự tiến hóa của các loài khác đặc biệt những loài gần gũi
với con người thì rất quan trọng cho việc hiểu sự tiến hóa của loài người.
Dù sao đi
nữa thì cũng chấp nhận rằng khoảng cách giữa dòng tiến hóa của các sinh vật đầu
tiên và con người diễn ra trong một thời gian khoảng 12 triệu năm trước cho
loài vượn, 6 triệu năm cho loài khỉ đột (loài tinh tinh khoảng 9 triệu năm
trước). Tuy nhiên, chúng ta đang nói đến khoảng thời gian mà loài động vật có
vú dường như không hiện hữu.
Từ 4 hoặc 5
triệu năm trước vào đầu thời kỳ Pliocene xuất hiện những loài mang những
đặc điểm gần giống với con người. Tuy nhiên, cũng cần nhắc nhớ rằng trong thời
gian đó khoảng cách của dòng tiến hóa của các sinh vật đầu tiên đã được kiểm chứng.
Những loài này có tên gọi chung chung là Australopithecus. Nguồn gốc của
chúng không chắc chắn lắm, và cũng không thể biết chính xác tương quan giữa
chúng và các loài mang đặc tính vượn được tìm thấy trong khoảng thời gian giữa khoảng
trống và Miocene. Từ thời gian này ở nhiều nơi khác nhau xuất hiện
loài có vú, chẳng hạn động vật có hai chân, là loài động vật có những đặc điểm
khác biệt rõ ràng với những loài trước. Thật không dễ dàng để xác định rằng đó
chỉ là một loài với nhiều giống loại khác nhau (chẳng hạn như A. africanus,
A. afarensis, A. bosei, A. robustus ...), hay là nhiều loài khác nhau: ngày
nay chúng ta phân biệt giữa Australopithecus (africanus, afarensis ...)
và Paranthropus (bosei, robustus ...). Những loài sau cùng này dường kéo
dài khá lâu cho đến 1,5 đến 2 triệu năm trước.
Khoảng 2
triệu năm trước đã bắt đầu dòng tiến hóa hướng đến loài người như ngày nay.
Loài người Homo bắt đầu với Homo habilis sống vào khoảng thời
gian này vào cuối thời kỳ Pliocene. Trong thời kỳ này xuất hiện việc sử
dụng các phương tiện và việc tìm kiếm nơi ở theo môi trường sống: những nơi sản
xuất những dụng cụ, phân chia vùng để săn mồi, những căn nhà tạm bợ, vân vân.
Nếu Homo habilis dường như sống cùng thời với Paranthropus, thì
vẫn có những khác biệt rõ ràng về hình thái lẫn văn hóa. Một nhánh khác mang
những đặc điểm gần với con người hơn xuất hiện vào khoảng 1,5 triệu năm trước: Homo
erectus. Loài mới này dường như là hậu duệ của Homo habilis, có lẽ
nhờ Homo ergaster. Trong trường hợp này chúng ta không chỉ tìm thấy việc
sử dụng những phương tiện và công cụ, mà còn khả năng sử dụng lửa nữa, một
tương quan mới với môi trường sống chung quanh - giống loài này không chỉ
"ở" tại một vùng đất, mà còn biết sử dụng và cải tạo đất đai - cũng
như thực hành việc chôn cất người chết. Ngoài ra, dường như cũng có sự xuất
hành của con người từ Phi Châu sang Á Châu và Âu Châu.
Homo sapiens (loài người thông minh) xuất
hiện vào khoảng 500 ngàn năm trước. Chúng ta tìm thấy những kiểu khác nhau: Homo
heidelbergensis khoảng 600 000 đến 300 000 năm trước, Homo
neanderthalensis khoảng 400 000 năm trước và sống đến khoảng 40 000 ngàn
năm trước ít nhất trong những vùng đất Châu Âu, Homo florensis được tìm
thấy mới đây tại bán đảo Java không quá 100 000 năm trước. Cuối cùng, khoảng 150
000 năm trước xuất hiện Homo sapiens hiện đại.
7. Loài người xuất hiện khi nào?
Chúng ta đã
trình bày một cách ngắn gọn về sự tiến hóa loài người. Nhưng điểm cốt yếu theo
khóe nhìn triết học và tôn giáo chính là đặc tính của những giống loài khác biệt
này. Những loài khác nhau mà ngày nay chúng ta cho rằng thuộc loài người có sở
hữu những đặc tính cần thiết gọi là đặc tính người thực sự, nghĩa là những cá
thể được phú ban cho chiều kích thiêng liêng, có khả năng tri thức và suy tư
phản tỉnh cũng như có ước muốn tự do hay không?
Trước hết,
chúng ta xem xét những khác biệt về sinh học giải phẫu. So với các loài trước
không phải là loài người, chúng ta nhận thấy những loài này có hộp sọ lớn hơn
nhiều. Điều này cho thấy chúng có sự phát triển về bộ não. Rồi, chúng ta nhận
thấy khuôn mặt cũng không giống loài khỉ, cái đầu nhô ra phía trước và có những
đặc điểm khác với con người hiện đại như kích thước hộp sọ, vòm xung quanh não,
vùng hàm, vùng xương chẩm. Phần còn lại khoa sinh học giải phẫu học cho thấy rất
gần với con người.
Nhưng đâu là
tiêu chuẩn đích thực để xác định căn tính con người? Những tiêu chuẩn sinh học
giải phẫu chắc chắn là rất quan trọng đối với động vật đi hai chân do hệ thống
tay chân và xương chậu, do sự phát triển của bộ bão và những cơ quan liên hệ
đến ngôn ngữ (vỏ não và thanh quản) nơi mà bộ não có khả năng hình thành ngôn
ngữ. Tuy nhiên, chúng ta thấy rằng trong tiến hóa những đặc điểm này xuất hiện
một cách tiệm tiến và không có bước nhảy vọt nào.
Tính liên
tục này xét theo chiều kích sinh học không loại bỏ một bước nhảy vọt cần thiết
giúp chúng ta nhận biết căn tính con người. Là thành phần của thiên nhiên, con
người mang trong mình cách tất yếu những điều kiện vật lý sinh học, nghĩa là
trong chiều dài lịch sử hình thành nên loài người, thân xác con người dần dần
được hình thành bởi những cơ cấu vật lý sinh học theo dòng tiến hóa của những
giống loài khác. Xét theo chiều kích nhân học, một bước nhảy vọt vượt quá những
định luật vật lý sinh học sẽ không có ý nghĩa. Chúng ta cũng là những hữu thể
được cấu thành bởi vật chất và cùng với tất cả những hữu thể khác, chúng ta là
thành phần trong vũ trụ, trong thiên nhiên. Vì thế, theo khoa cổ sinh vật học
thì những dữ kiện sinh học giải phẫu không xác định được thời gian của một cuộc
nhân loại hóa. Jean Piverteau, một trong những nhà cổ sinh vật của thế
kỷ XX, cho rằng: "Làm cách nào một nhà cổ sinh vật học cho thấy loài vượn
nhân hình trở thành người? Một nghiên cứu về tiêu chuẩn giải phẫu sinh học chỉ
mang lại một sự kiện thiếu chắc chắn; tiêu chuẩn tâm sinh lý sẽ có giá trị
hơn".[14]
8. Những nẻo đường văn hóa: homo faber
Để xác định
thời điểm xuất hiện con người thì cần thiết quan tâm đến những biểu hiện về
thái độ, về xã hội và văn hóa riêng biệt trong đời sống tâm sinh lý của mỗi
loài hoặc một nhóm loài. Khả năng tinh thần của con người được biểu hiện trong
các nền văn hóa, trong cấu trúc xã hội qua việc sử dụng các công cụ, các phương
tiện, sử dụng lửa và các kỹ thuật khác. Tôi muốn trưng dẫn ra đây một ví dụ đã
được Fiorenzo Facchini đề cao: hoạt động khoa học kỹ thuật như biểu hiện cho
việc sử dụng các biểu tượng ở cấp độ tinh thần.[15] Nơi con
người, chúng ta tìm thấy sự phát triển của biểu tượng cho các chức năng xã hội
và tinh thần giúp cho con người không chỉ hoạt động bởi những kích thích trực
tiếp từ bên ngoài, mà còn đưa ra một biểu tượng cho thế giới. Thế giới bên
ngoài được biến đổi do những gì bên trong con người, được "trừu
xuất", được "nhận biết". Điều này cho thấy trong những cá thể
con người có khả năng nhận biết, khả năng suy tư phản tỉnh và tự do.
Homo faber (con người lao động) cho thấy
họ không chỉ biết sử dụng và sản xuất ra những công cụ, mà còn biết xây dựng và
tổ chức đời sống xã hội. Ở đây, chúng ta có thể một sự biểu hiện rõ ràng về
chiều kích thiêng liêng. Quả vậy, không phải nói đến việc dùng cây khều thức
ăn. Rất nhiều động vật có khả năng sử dụng những phương tiện cho việc nuôi
dưỡng, phát triển và cho các mục đích khác. Homo faber không chỉ sử dụng
các công cụ, mà còn sáng chế ra chúng nữa: con người có khả năng sử dụng các
phương tiện và công cụ để làm nên những công cụ khác, có khả năng dự phóng và
nhìn thấy trước để làm những công cụ thích hợp cho mục đích của họ. Điều này
biểu tỏ một trình độ cao trong trí tưởng tượng: cần thiết diễn tả nội tâm những
gì mình muốn sở hữu. Hơn nữa, cũng biểu lộ một nhận thức đặc thù về thời gian:
biết sẽ phải dùng công cụ gì để đối diện với một hiện trạng cụ thể trong tương
lai. Các động vật sử dụng những phương tiện và công cụ rất khác nhau: loài khỉ
dùng những cây gậy nhỏ để kiếm thức ăn, và sau khi đã dùng thức ăn rồi, thì cây
gậy này không cần thiết nữa, vì thế chúng chẳng làm hoàn hảo cây gậy này để cho
một mục hoàn hảo hơn.
Hoạt động kỹ
thuật mà chúng ta thấy nơi người Homo habilis tỏ hiện sự vươn ra đối với
những hoạt động trong tương lai, là những hoạt động mang chiều kích tự do và ý
thức. Hơn nữa, với khả năng dự phóng, những công cụ có một ý nghĩa đặc thù cho
cá nhân và xã hội. Chúng ta tìm thấy có những người được chôn cất cùng với
những công cụ và vũ khí của họ. Vì thế, những công cụ không phải là thứ yếu,
nhưng rất cần thiết cho sự sống con người. Ngay từ khi khám phá ra lửa, con
người cũng khám phá ra rằng có thể sản xuất ra vũ khí và những công cụ khác như
những chiếc búa, rìu, con dao. Những sản phẩm này trở nên cần thiết và nền tảng
cho cuộc sống con người và nếu không có những công cụ này con người cũng khó có
thể duy trì cuộc sống của mình. Con người tất yếu phải sản xuất chúng.
Một cách nào
đó, khoa cổ sinh vật học giúp chúng ta khám phá ra ý nghĩa siêu việt của con người.
Quả thật xét theo chiều kích thực nghiệm, những dữ kiện không nói cách trực
tiếp đến chiều kích tinh thần của con người; nhưng xét theo chiều kích hiện
tượng luận, nhờ những dữ kiện này, chúng ta có thể hiểu rằng có những cách hành
xử siêu việt chiều kích sinh học. Đây là một bước nhảy vọt cho thấy sự xuất
hiện của con người. Những học giả tân - Darwin, chẳng hạn như Theodosius
Dobzhansky hay Francisco Ayala, nêu lên nghịch lý rằng: nếu con người tiếp tục
tiến trình sinh học của các loài động vật khác, thì con người tỏ hiện điều đó
qua văn hóa và hành xử, chứ không phải qua những gì thuần túy sinh học.
Xét theo
khóe nhìn nhân học, chúng ta có thể khẳng định rằng có sự hiện hữu của một bước
nhảy vọt rõ ràng mà chúng ta gọi là bước nhảy trên bình diện hữu thể học. ĐTC
Gioan Phaolô khẳng định rằng: "Đối với con người, chúng ta đứng trước một
sự khác biệt trên bình diện hữu thể, chúng ta có thể nói rằng đó là một bước
nhảy siêu hình".[16] Bước nhảy
hữu thể học biểu hiện ở tinh thần con người, ở sự hiện hữu của linh hồn thiêng
liêng. "Có phải khi chúng ta nói đến bước nhảy trên bình diện hữu thể học
thì không có nghĩa là nó trái ngược với tính liên tục trên bình diện vật lý, là
bình diện cần một sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong việc nghiên cứu sự tiến hóa theo
chiều kích vật lý và hóa học?".[17] Ngày nay
những học giả chủ trương thuyết tiến hóa tiếp tục nghi ngờ rằng: việc khẳng
định một bước nhảy vọt hữu thể học không làm mất tính liên tục vật lý sinh học?
Cần thiết phải phân biệt 2 cấp độ không mâu thuẫn nhau, và hai cấp độ này không
phải là kết quả của một sự "chọn lựa mang tính siêu hình": như chúng
ta đã thấy, đó là những lưu tâm của hiện tượng cổ sinh vật học đã vạch ra.
ĐTC Gioan Phaolô II kết luận rằng: "Việc lưu tâm đến phương pháp trong các lãnh vực nghiên
cứu khác nhau cho phép chúng ta dung hòa hai khóe nhìn dường như tương phản với
nhau. Khoa học thực nghiệm mô tả và kiểm chứng cách chính xác những hiện tượng
khác nhau của sự sống và mô tả sự sống trong tiến trình thời gian. Giây phút
chuyển tiếp sang đời sống tinh thần không phải là đối tượng của khoa học thực
nghiệm, cho dẫu điều này có thể được nhìn thấy qua một loạt những dấu chỉ quý
giá trong tính đặc thù của hữu thể nhân linh. Kinh nghiệm về siêu hình, về tự
thức và tự suy tư phản tỉnh, ý thức luân lý, tự do, về vẻ đẹp và về tôn giáo,
đều thuộc lãnh vực của suy tư triết học; trong khi đó, thần học sẽ tiếp cận kế
hoạch của Đấng Tạo Hóa".[18]
Đây chính là
con đường có thể giúp hiểu được tính đặc thù của hữu thể con người trong tiến
trình tiến hóa qua đó loài người có một nguồn gốc, đồng thời cũng hiểu biết
nguồn gốc thần linh của con người như một thụ tạo được Thiên Chúa yêu mến.
Fx. Phạm Đình Phước SDB
chuyển ngữ từ Rafael A. Martínez,
"L'origine dell'uomo. Scienza, filosofia, fede", trong: Mauro
Mantovani - Marilena Amerise (ed.), Fede,
cultura e scienza, Libreria Editrice Vaticana, Città del Vaticano 2008, pp.
135-148.
[1] Jacques Monod, Il caso e la necessità. Saggio sulla filosofia naturale della biologia
contemoranea, Mondadori, Milano 1971, p. 143.
[2] ĐTC Biển Đức XVI, Bài giảng trong thánh lễ khai mạc sứ vụ Giáo Hoàng (24.04.2005).
[3] X.
M. Artigas - Th. F. Glick - R. A. Martinez, Negotiating
Darwin: The Vatican confronts evolution, 1877-1902, The John Hopkins
University Press, Baltimore 2006.
[4]
Chúng ta có thể liệt kê ra đây một số học giả: Nhà sinh học người Anh, George
J. Mivart với tác phẩm The generis of
Species xuất bản năm 1871, chấp nhận thuyết tiến hóa, nhưng cũng phê bình
những lý giải của Darwin về cơ cấu tiến hóa, đồng thời cũng chấp nhận có sự
tương hợp hoàn toàn giữa thuyết tiến hóa và giáo huấn của Giáo Hội công giáo.
Darwin đã thêm vào một chương trong lần xuất bản thứ sáu của cuốn Nguồn gốc các loài để trả lời những phê
bình của Mivart. Trong lãnh vực triết học và thần học chúng ta có Raffaello
Caverni, Dalmace Leroy, John A. Zahn, HY Zeferino González, Juan González
Arintero, Ambroise Gardeil và những tác giả khác.
[5] X.
E Messenger, Evolution and Theology. The
problem of man's origin, The Macmillan Company, New York 1932.
[6] X.
P. J. Bowler, The eclipse of Darwinism:
Anti-Darwinian evolution theories in the decades around 1900, Johns Hopkins
University Press, Baltimore 1983.
[7]
Piô XII, Thông điệp Humani generis (22.08.1950),
số 36.
[8] Ibidem.
[9]
Gioan Phaolô II, Bài nói chuyện với Hàn
Lâm Viện Giáo Hoàng về Khoa Học (22.10.1996).
[10] Ibidem.
[11] Christoph
Schönborn, "Finding
Design in Nature", in New York Times
(07.07.2005).
[12] Christoph
Schönborn, "The designs of science", in First Things 159 (1) 2006, p. 34-36; một loạt các bài giáo lý tại
nhà thờ Chính Tòa Vienna với tựa đề Schopfung
und Evolution trong những năm 2005-2006;
và S. O. Horn - S. Wiedenhofer (a cura di), Creazione ed Evoluzione, Edizioni Dehoniane, Bologna 2007, p 5-18,
75-76.
[13]
M. Behe, Darwin's black box: the
biochemical challenge to evolution, Free Press, New York 1996.
[14] Jean Piveteau, La comparse dell'uomo. Il punto di vista della scienza, Jaca Book,
Milano 1993, p. 75.
[15] X. Fiorenzo Facchini, Origine dell'uomo ed evoluzione culturale. Profili scientifichi,
filosofici, religiosi, Jaca Book, Milano 2002.
[16] Xem trong Fiorenzo Facchini, Origine dell'uomo ed evoluzione culturale.
Profili scientifichi, filosofici, religiosi, Jaca Book, Milano 2002.
[17] Ibidem.
[18] Gioan Phaolô II, Bài nói chuyện với Hàn Lâm Viện Giáo Hoàng về Khoa Học (22.10.1996).