Don Bosco
với Mẹ Maria: Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu
Gioan Bosco mang trong tâm hồn tình yêu đối
với Mẹ Maria. Cậu đã bắt đầu các trò chơi hay công việc bằng lời kinh Kính
Mừng Maria hay các lời nguyện tắt như “Mẹ Maria mến yêu, xin hãy
giúp con”, “Ngai tòa của Sự Khôn ngoan, xin cầu cho chúng con”…
Nói về sự hiện diện của Đức Maria trong cuộc
đời Don Bosco là nói đến toàn bộ đời sống của ngài và chúng ta không thể làm
việc này chỉ trong vài hàng chữ. Hiến Luật, khoản 8, cống hiến cho chúng
ba từ ngữ cốt yếu (chìa khóa): chỉ cho thấy, hướng dẫn, và nâng đỡ. “Mẹ Maria chỉ cho Don Bosco cánh đồng
làm việc của ngài giữa giới trẻ và liên lỉ hướng dẫn và nâng đỡ ngài, nhất là
trong việc sáng lập Tu Hội chúng ta” (HL 8).
Với hai hạn từ “hướng dẫn
và nâng đỡ”, chúng ta liên hệ đến hai chiều kích nền tảng của con người:
lý trí và ý chí. Đức Maria là Mẹ và là Bà Giáo soi sáng lý trí của cậu
bé Gioan, để tiệm tiến và mỗi lần một chút sâu hơn (intus-legere) có thể
hiểu sứ mệnh của mình hệ tại ở điều gì (“Đúng lúc, con sẽ hiểu mọi sự”), mãi
tới khi thời khắc cảm động đến, Don Bosco sẽ thú nhận: “Bây giờ cha hiểu mọi
sự”. Đàng khác, Đức Maria nâng đỡ ngài suốt cuộc đời, kiện cường ý chí ngài để
ngài có thể trở nên ngày càng “mạnh mẽ và nghị lực” hơn. Bằng không, ngài sẽ
không thể đương đầu với những gánh nặng và khó khăn của sứ mệnh đó.
Don Bosco đáp trả sự hướng dẫn và nâng đỡ của Đức Maria bằng lòng
sùng kính đặc biệt: Mẹ Maria phù hộ các giáo hữu. Chúng biết
rằng khi Don Bosco bắt đầu suy tư cách nghiêm túc về tước hiệu “Phù Hộ các Giáo
hữu”, ngài đã gần 50 tuổi (trước đó là người nữ mục tử [khởi đầu công cuộc] và
Mẹ Vô Nhiễm [trong việc sáng lập 2 dòng tu).
Tước hiệu “Phù Hộ các giáo hữu” rất quan
trọng với Don Bosco (tước hiệu này xuất hiện trong Lumen Gentium, được liên kết với tước hiệu “Mẹ Giáo hội”). Cha
Egidio Viganò viết: “Lý do cho lòng sùng kính này, ngay tự bản chất, dành
cho những thời đại khủng hoảng”. Chính Don Bosco diễn tả điều ấy cho cha
Cagliero khi xác quyết: “Đức Mẹ muốn chúng ta tôn kính Mẹ dưới tước hiệu Phù Hộ các Giáo hữu, thời đại thật
buồn thảm đến nỗi chúng ta thực sự cần đến Đức Nữ Trinh cực thánh phù giúp
trong việc bảo tồn và bảo vệ đức tin Kitô hữu”.
Trải qua những khó khăn và những giây phút
gian nan thử thách, Don Bosco đã cảm nghiệm sâu sắc hơn nữa tình yêu thương
thiêng liêng từ mẫu của Mẹ Maria. Niềm an ủi lớn lao mà ngài có được trong
những thiếu thốn, nghèo khó, nhọc mệt, căng thẳng, lo âu chính là Mẹ Maria Phù
Hộ Các Giáo Hữu.
Quả vậy, Đức Maria Phù Hộ Các Giáo Hữu luôn ở
bên cạnh Don Bosco. Mẹ chỉ cho Gioan cách thức chuẩn bị sứ mệnh (MB I, 96),
hướng dẫn bước đi của cậu trong giai đoạn đầu của công cuộc (MB II, 190-191),
hướng dẫn các công cuộc phát triển cách vững chắc (MB II, 232-234), chỉ cho Don
Bosco phương pháp đào luyện các cộng sự viên và thanh thiếu niên (MB II,
25-27).
Có một sự tương quan tuyệt vời giữa Don Bosco
và Mẹ Maria Phù Hộ Các Giáo Hữu: Mẹ mãi mãi là “Mẹ của Don Bosco” và Don Bosco
là “Vị Thánh của Mẹ Maria Phù Hộ Các Giáo Hữu”. Cách khiêm tốn, Don Bosco nhìn
nhận rằng “Không phải cha là tác giả của những công trình tuyệt diệu mà các con
nhìn thấy. Tác giả chính là Thiên Chúa; là Đức Trinh Nữ Maria, Đấng đã tỏ mình
cho vị linh mục nghèo hèn này. Chính Mẹ Maria đã thực hiện tất cả”.
Ngày 16 tháng 5 năm 1887, Don Bosco dâng thánh lễ tại nhà thờ
Thánh Tâm Rôma, Ngài dâng Thánh Lễ này tại bàn thờ dâng kính Đức Mẹ Phù Hộ, có
linh mục thư ký của ngài là cha Viglietti giúp lễ. Hơn mười lăm lần trong Thánh
Lễ, cảm xúc và nước mắt đã làm cho Don Bosco ngừng lại, không đọc tiếp kinh lễ
được: “Cha đã nhìn lại, đã gợi ra trước mắt Cha giấc chiêm bao 9 tuổi. Các con
biết, ai đã quyết định cả đời cha; nhất là cha vẫn nghe văng vẳng bên tai cha
lời nói của Bà Giáo, khi cha năn nỉ Bà cho cha biết ý nghĩa của giấc mơ kỳ lạ
đó. Bà nói: ‘Một ngày kia, khi tới thời gian đó, con sẽ hiểu tất cả’. Từ đó đến
nay, đã qua sáu mươi năm. Bây giờ cha đã hiểu. Cha thấy tất cả là Đức Mẹ cùng
Don Bosco thực hiện, nhất là Đức Mẹ đã thực hiện”. Tất cả những gì Don Bosco đã
làm, ngài đã làm được với sự trợ giúp và ơn soi sáng của Nữ Vương Trên Trời.
Yếu tố quyết định cho lòng sùng
kính của Don Bosco đối với Đức Maria Phù Hộ Các Giáo Hữu có điểm quy chiếu tại ngôi thánh đường ở
Valdocco. Cha Edigio Viganò viết “Điều này sẽ vẫn là sự lựa chọn dứt khoát. Đức
Trinh Nữ Maria Phù Hộ Các Giáo Hữu là điểm quy chiếu cho sự cổ võ và phát triển
ơn gọi, cũng như là trung tâm quảng bá đặc sủng của Đấng Sáng Lập. Don Bosco
đón nhận dung mạo của Mẹ Maria với tước hiệu Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu, là Đấng đã
khởi sự ơn gọi của mình và là Bà Giáo hướng dẫn cuộc đời Don Bosco”.
Fx.
Phạm Đình Phước SDB
Trích “Nội Quy
Hội Mẹ Phù Hộ Các Giáo hữu”, của
Thánh Gioan Bosco, Linh mục.
Mẹ
Maria Phù Hộ các Giáo Hữu
Tước
hiệu “Phù Hộ các Giáo hữu” được đặt cho Mẹ Đấng Cứu Thế, không phải là điều gì
mới. Trong chính các Sách Thánh Mẹ Maria được nói tới như là Nữ vương đứng bên
phải Con Thần Linh của Ngài, mặc áo vàng ròng và được đính nhiều thứ. Theo tinh
thần Hội Thánh, áo vàng ròng được đính nhiều thứ, là đá và ngọc qúy, hay các
tước hiệu, chúng ta quen dùng để thưa với Mẹ Maria. Vì thế, khi chúng ta kêu
cầu Đức Nữ Trinh là “Phù Hộ các Giáo hữu”, chúng ta dùng một tước hiệu đặc biệt
phù hợp với Ngài, như là một viên ngọc trên áo choàng bằng vàng của Ngài.
Theo
ý nghĩa này, Mẹ Maria được chào như là Phù Hộ của nhân loại ngay từ lúc khởi
đầu của thế giới, ngay từ khi Adam, sau khi sa ngã phạm tội, được hứa ban một
Đấng Giải phóng, sinh ra từ một phụ nữ, sẽ đạp dập đầu con rắn nguy hiểm do
chính bàn chân vô tội của Ngài.
Thực
vậy, Người Nữ vĩ đại này được tượng trưng nơi cây sự sống ở trong vườn địa
đàng; nơi tàu Noe đã cứu những người tôn thờ Thiên Chúa thật, thoát khỏi lụt
đại hồng thủy; nơi cầu thang ông Giacóp cao tới trời; nơi bụi gai Ông Moisen
cháy rực, nhưng không bị thiêu rụi, ám chỉ Mẹ Maria vẫn còn đồng trinh sau khi
sinh con; nơi hòm bia Giao Ước; nơi tháp Đavít chống lại mọi tấn công; nơi hoa
hồng Giêrikhô; nơi dòng suối được niêm phong; nơi vườn được Vua Salomon vun
trồng và chăm sóc tử tế, tượng trưng mọi phúc lành tuôn chảy; nơi tấm len của
Ghiđêon.
Nơi
khác Ngài được gọi là ngôi sao của Giacóp, rạng rỡ như mặt trăng, qúy phái như
mặt trời, cầu vồng hoà bình, con ngươi của mắt Thiên Chúa, vầng đông an ủi, Nữ
Trinh và Mẹ của Chúa mình. Các biểu tượng và cách diễn tả này được Hội Thánh áp
dụng cho Mẹ Maria, biểu lộ kế hoạch quan phòng của Thiên Chúa : Ngài muốn tỏ lộ
trước khi Mẹ sinh ra, như là con đầu lòng của mọi thụ tạo, là người bảo vệ, phù
hộ và nâng đỡ kỳ diệu, và sửa chữa những sự xấu mà nhân loại dễ xa ngã.
Trong
Tân Ước, không chỉ với biểu tượng và tiên tri mà Đức Mẹ được nói tới như là
Đấng Phù Hộ nhân loại nói chung, nhưng Ngài cũng được gọi là sự phù hộ, nâng đỡ
và bảo vệ các Kitô hữu; và điều này không còn nơi hình ảnh, không còn nơi những
diễn tả biểu tượng; trong Phúc Âm mọi sự đều là thực tại và hoàn tất của qúa
khứ. Đức Maria được Tổng thiên thần Gabriel chào là “Đầy ân sủng”. Thiên Chúa
đoái nhìn sự khiêm tốn sâu thẳm của Đức Maria và nâng Ngài lên địa vị làm Mẹ
Ngôi Lời vĩnh cửu. Chúa Giêsu là Chúa bao la và khôn dò, trở nên Con của Đức
Maria. Từ Mẹ Maria, Ngài được sinh ra; nhờ Mẹ Maria, Ngài được giáo dục và nuôi
dưỡng. Ngôi Lời Vĩnh Cửu làm người vâng phục Mẹ Ngài trong mọi sự. Theo Mẹ yêu
cầu, Ngài đã làm dấu lạ đầu tiên tại Cana, ở Galilê; trên Calvariô, Đức Mẹ được
đặt làm Mẹ tất cả các Kitô hữu. Các Tông đồ đón nhận Mẹ làm người hướng dẫn và
thầy dạy về nhân đức. Cùng với Mẹ, các ngài quy tụ ở Nhà Tiệc Ly để cầu nguyện;
với Mẹ, trong hồi tâm, các ngài chờ đợi Chúa Thánh Thần đến. Với các Tông Đồ,
Mẹ nói lời cuối cùng trước khi lên thiên đàng vinh hiển.
Và
từ toà cao vinh hiển, Mẹ hướng cái nhìn từ mẫu về nhân loại và nói : Từ toà cao
cả và vinh hiển này, Mẹ ban nhiều phúc lành cho những ai yêu mến Mẹ và cùng với
các ơn huệ trên trời, họ tăng cường các kho tàng ơn sủng của họ.
Và từ đó, ngay từ khi Mẹ lên trời hồn
xác, các Kitô hữu liên lỉ và không ngừng hướng về Mẹ Maria, như Thánh Bênađô đã
nói với chúng ta, không hề có ai nói rằng những người tin tưởng kêu cầu Người
Mẹ Yêu Dấu này đã không được nhậm lời. Chính vì thế mỗi thế kỷ, mỗi năm, mỗi
ngày, và chúng ta có thể nói rằng, mỗi giây phút trong lịch sử đều được đánh
dấu bằng những ơn huệ trọng đại được ban cho những người kêu cầu Mẹ với đức
tin. Đây cũng là lý do tại sao mỗi vương quốc, mỗi thành phố, mỗi gia đình đều
có nhà thờ, nhà nguyện, bàn thờ, tượng, ảnh hay dấu chỉ nào đó biểu lộ lòng tôn
sùng Đức Mẹ, và đồng thời nhắc nhớ nhiều ân sủng được ban cho những người chạy
đến với Mẹ trong những nhu cầu của đời sống.